I.
CÁC QUY LUẬT PHÂN HOÁ ĐỊA
LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM
Lãnh thổ Việt Nam phần trên đất liền tuy diện
tích chỉ rộng hơn 330 nghìn Km2 nhưng
thiên nhiên lại rất đa dạng
và có sự phân hoá phức tạp. Thiên nhiên thay đổi theo không gian ba
chiều: từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và từ thấp lên cao, đã hình thành nên nhiều khu vực tự nhiên ở các cấp phân vị khác nhau. Những
đơn vị địa lí tự nhiên này được hình thành và phát triển do ảnh hưởng
trước hết của các quy luật chung của tự nhiên.
Đa số các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu sự phân hoá của lãnh thổ Việt Nam đều xuất phát từ những quy
luật này. Sự phân hoá phức tạp và sự
đa dạng của cảnh quan tự nhiên Việt Nam do vị trí địa lí và là kết quả của sự
phát triển không đồng đều ở các bộ
phận khác nhau trên lãnh thổ, phụ thuộc vào sự tác động tương quan của hai nguồn năng lượng chủ yếu
quyết định động lực của các quá trình
địa lí.Đó là năng lượng bức xạ mặt trời và năng lượng bên trong của Trái Đất. Hai nguồn năng lượng này thay đổi theo thời
gian và không gian nhưng quan trọng
hơn, tác động của chúng rất khác nhau. Trong khi nguồn năng lượng bức xạ mặt trời có sự phân bố và thay đổi theo quy luật địa đới, nguồn năng lượng
bên trong của Trái Đất lại bị chi phối
bởi quy luật phi địa đới.
1.1.
Quy luật phân hoá địa đới
1.1.1. Quy luật địa đới
a.
Khái niệm
Quy luật địa đới là sự thay đổi có quy
luật của tất cả các thành phần địa lí và các cảnh quan tự nhiên theo vĩ độ từ
xích đạo về hai cực. Đây là quy luật phổ cập, tạo nên các vòng đai địa lí bao
quanh Trái Đất.
Những mầm mống của học thuyết về các đới
tự nhiên ( nhiệt đới, ôn đới, hàn đới ) đã được
nảy sinh từ thời Hy Lạp cổ đại, nhưng chỉ sau các công trình nghiên cưú của
Đôcusaev (Nga) vào những năm 1898 – 1900 thì
tính địa đới mới được giải thích như một quy luật địa lí. Đôcusaev chính
là người đầu tiên khám phá ra quy luật địa đới theo chiều ngang ( theo vĩ độ )
và theo chiều thẳng đứng ( theo chiều cao ). Ông đã xây dựng học thuyết về các
đới tự nhiên và về sau học thuyết này tiếp tục phát triển bởi nhiều nhà địa lí
Xô Viết, đặc biệt là L. X. Becgơ và A. A. Grigôriev.
Quy
luật địa đới là một trong những quy luật cơ bản của khoa học địa lí. Vì vậy khi
tiến hành nghiên cứu và phân vùng địa lí tự nhiên mỗi khu vực cần phải tính
toán tới số lượng và chất lượng của năng lượng mặt trời mà nơi đó nhận được.
Chúng ta đều thừa nhận sự phân bố không đồng đều của lượng bức xạ mặt
trời theo vĩ độ là nguyên nhân đầu tiên của
tính địa đới. Sự thay đổi có quy luật của lượng bức xạ mặt trời theo hướng giảm dần từ
xích đạo về hai cực cũng chính là sự thay đổi có quy luật của sự giảm góc nhập xạ theo hướng đó. Ngoài ra nguyên nhân hình thành
quy luật địa đới còn có sự tham gia của
hoàn lưu khí quyển trên quy mô toàn cầu, khiến cho sự phân bố thực tế của bức
xạ mặt trời trên bề mặt Trái Đất sẽ
khác rất nhiều so với sự phân bố lí thuyết. Hoàn lưu khí quyển dựa trên
bốn khối khí cơ bản là: khối khí cực, khối khí ôn đới, khối khí nhiệt đới và khối khí xích đạo là cơ sở để xác định các đới khí
hậu chính. Thêm vào đó những chuyển dịch
theo mùa của hoàn lưu khí quyển còn hình thành ba đới khí hậu trung gian, giữa
xích đạo và nhiệt đới, giữa nhiệt đới và ôn đới, giữa ôn đới và cực đới để hình
thành nên 7 đới khí hậu chính của mỗi
bán cầu ( Bắc và Nam ) là cực đới, cận
cực, ôn đới, cận nhiệt đới, nhiệt đới, cận xích đạo và xích đạo ( Theo
B.P. Alixov ).
Như
vậy sự phân chia ra các đới tự nhiên của lớp vỏ địa lí của Trái Đất là do năng
lượng bức xạ của mặt trời và lượng ẩm được phân bố theo đới. Chính sự phân bố
theo đới của nhiệt và ẩm đã dẫn tới tính địa
đới của các thành phần và các yếu tố khác của cảnh quan tự nhiên như:
thuỷ văn, thổ nhưỡng, thảm thực vật, địa hình…
Trên
thực tế các đới cảnh quan và các kiểu cảnh quan có sự phân bố đứt quãng và
không phải bao giờ cũng hướng dọc theo các vĩ tuyến một cách đều đặn.
b.
Các căn cứ để xác định
tính địa đới.
Nhiều nhà địa lí đã thống nhất xác định các đơn vị địa đới là mối tương quan nhiệt và ẩm tiêu
biểu là chỉ số khô hạn của A.A. Grigoriev và M.I. Buđưcô K= B/L.r ( trong đó K
là số chỉ số khô hạn, B là cán cân bức xạ
tính bằng kcal/ cm2, L là tiềm nhiệt hoá hơi của nước tính
bằng kcal/g, r là lượng mưa trung bình năm tính bằng g/cm2 .
Độ lớn của K qui định kiểu đới cảnh quan, còn cán cân bức xạ (B) quy định
đặc tính cụ thể và trạng thái của đới.
Cán cân bức xạ được xác định đối với các vĩ độ như sau: nhỏ hơn 0 ở các
vĩ độ cao, từ 0 đến 50 kcal/cm²/năm ở vùng cận cực và các vĩ độ trung bình, từ
50 -75 kcal/cm²/ năm ở các vĩ độ cận nhiệt đới, trên 75 kcal/cm²/năm ở các vĩ
độ nhiệt đới.
Về điều kiện ẩm, chỉ số khô hạn K được xác định: nhỏ hơn 0 là quá thừa
ẩm, từ 0-4/5 là thừa ẩm, từ 4/5-1 là độ ẩm thuận lợi nhất, từ 1-2 là hơi thiếu
ẩm, từ 2-3 là thiếu ẩm, trên 3 là quá thiếu ẩm.
Mối tương quan nhiệt ẩm thông qua các chỉ số này cho thấy rõ khi nói tới
các nhân tố khí hậu của tính địa đới thì không thể tách vai trò của năng lượng
mặt trời với trị số ẩm khí quyển. Cả hai nhân tố này luôn luôn xuất hiện cùng nhau
và xem như là nguyên nhân trực tiếp gây nên tính địa đới của các thành phần
khác của
cảnh quan.
Bên cạnh đó tính địa đới còn được biểu
hiện bên ngoài rõ rệt nhất thông qua giới hữu cơ.
Cho nên không phải ngẫu nhiên mà trong nhiều trường hợp các đới cảnh quan có
tên gọi theo kiểu thực vật đặc trưng (
đới rừng nhiệt đới, đới đồng cỏ ôn đới, đới tunđra cận cực…)
Sự
phân hoá địa đới theo vĩ độ quan trọng nhất và rõ ràng nhất là sự phân hoá ra
hai vòng đai địa lí tương ứng với hai khu vực:
-
Khu vực nội chí tuyến, giữa chí tuyến Bắc 23027’B
và chí tuyến Nam 23027’N là vòng đai nội chí tuyến;
-
Khu vực ngoại chí tuyến, từ hai chí tuyến về
phía hai cực Bắc và Nam là vòng đai ngoại chí tuyến.
1.1.2. Biểu hiện của quy luật
phân hoá địa đới ở Việt Nam
Xét quy luật địa đới ở Việt Nam, bình
thường và đúng ra như một số lãnh thổ có các vĩ
độ tương tự khác thì sự phân hoá của quy luật này ( sự phân hoá theo vĩ độ ) là
không đáng kể và không rõ ràng lắm, song trên thực tế lại có những biểu
hiện gần như hoàn toàn trái ngược. Nếu tính riêng về mùa hạ trên lãnh thổ Việt
Nam có sự đồng nhất về nhiệt độ: nhiệt độ tháng nóng nhất ở thành phố Hồ Chí
Minh (28,90C), chỉ cao hơn nhiệt
độ tháng nóng nhất ở Hà Nội (28,80C) có 0,10C. Song tính
chung cho cả năm thì sự phân hoá Bắc – Nam tính theo nhiệt độ trung bình năm
tới 0,360C/10 vĩ tuyến ( nghĩa là gấp 10 lần so với các nước
khác cùng vĩ độ, thí dụ như Ấn Độ chỉ có 0,040C/10 vĩ
tuyến ). Đặc biệt về mùa đông, do ảnh
hưởng của chế độ gió mùa mùa đông cùng với sự xuất hiện của các front cực ở
phần phía Bắc đã làm cho sự chêch lệch về nhiệt độ giữa miền Bắc và miền
Nam trở lên rất lớn, tới 90C,
nhiệt độ trung bình tháng 1 ( tháng lạnh nhất trong năm của Hà Nội là
16,50C và ở Thành phố Hồ Chí Minh là 25,80C).
Sự luân phiên tác động của các khối
không khí tạo nên sự phân hoá trong chế độ ẩm của khí hậu với hai mùa mưa và
mùa khô khác nhau rõ rệt. Song sự có mặt của khối không khí cực đới đã hạ thấp
nền nhiệt độ ở phần phía Bắc vĩ độ 160 Bắc ( vĩ tuyến của dãy Bạch Mã ). Do tác động ngăn chặn của dãy núi này, các
front cực thường tĩnh lại, ít hoạt động xuống phía Nam, tạo nên ranh giới giữa
hai cảnh quan, theo Vũ Tự Lập, là đới rừng gió mùa chí tuyến và đới rừng gió
mùa á xích đạo.
Như vậy, sự xuất hiện hai đới cảnh quan
địa lí mà ranh giới là vĩ độ 160B liên quan không chỉ đến nhân tố
phân hoá chính là gió mùa Đông Bắc và thời tiết lạnh do nó gây ra mà còn do tác
động của bức chắn địa hình. Gió mùa Đông Bắc tràn về lãnh thổ Việt Nam ở khu vực phía Bắc đèo Hải Vân dù đã biến tính song
vẫn còn giữ được bản chất khô và lạnh, khiến cho khu vực thuộc đới rừng gió mùa
chí tuyến đều có thời tiết lạnh( nhiệt độ trung bình tháng dưới 180C)
mà biểu hiện rõ rệt nhất là nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối, dưới 100C
vẫn còn gặp ở Bình - Trị - Thiên, ( Đồng Hới là 8,30C, Huế là 8,80C).
Khu
vực phía Bắc đèo Hải Vân thuộc đới rừng gió mùa chí tuyến có sự phân hoá theo
vĩ độ tiếp theo mà ranh giới tồn tại ở 180B ( Hoành Sơn) để phân
biệt ra hai á đới: từ Đèo Ngang trở ra Bắc là khu vực có mùa đông dài trên 3
tháng với nhiệt độ trung bình tháng dưới 180C, thậm chí có
nơi dưới 150C. Tại khu này, tính chất khô ( lượng mưa trung bình tháng nhỏ hơn lượng bốc hơi trung bình tháng ) cũng
có trên 3 tháng. Từ Đèo Ngang trở vào đến đèo Hải Vân chỉ có thời kì
lạnh và thời tiết lạnh khi gió mùa Đông Bắc tràn tới. Ở đây mùa đông ngắn ,
thường không quá 3 tháng. Tại các khu vực đồng bằng ven biển tính chất nhiệt
đới đã rõ rệt, không còn tháng nào nhiệt độ xuống dưới 180C nữa.
Từ
khu vực phía Nam đèo Hải Vân, không còn thời tiết lạnh và nhiệt độ trung bình
tháng thường lớn hơn 200C nên sự phân hoá theo vĩ độ tiếp theo của
quy luật địa đới tại đây là sự phân hoá theo chế độ ẩm. Ranh giới để phân biệt
ra hai á đới của đới rừng gió mùa á xích đạo ở khoảng 140B.
Khu vực phía Bắc vĩ độ 140B, do ảnh hưởng của khối núi Kon Tum nên khí hậu á đới này
tương đối ẩm , mùa khô ngắn và không sâu sắc. Khu vực phía Nam vĩ độ 140B, địa hình thấp hơn, mùa khô trở nên sâu
sắc, có thể kéo dài tới 5- 6 tháng. Thêm vào đó, từ Quy Nhơn trở vào Nam, tổng
nhiệt độ cả năm đạt tiêu chuẩn của chế độ nhiệt xích đạo.
Như
vậy, ở Việt Nam, việc phân chia trong nội bộ vòng đai nội chí tuyến thành các
đới và á đới chính là kết quả và biểu hiện rõ ràng của quy luật địa đới, còn
gọi là sự phân hoá theo vĩ độ hay sự phân hoá Bắc – Nam.
1.2.
Các quy luật phân hoá phi địa đới
Quy luật phi địa đới là quy luật quan
trọng thứ hai của sự phân hoá và phát triển của các thể tổng hợp địa lí tự
nhiên.
Quy
luật phi địa đới gắn liền với cấu tạo phức tạp của bề mặt Trái Đất. Tính
không đồng nhất của cấu trúc địa chất, sự khác nhau về vị trí , độ cao và các
yếu tố địa mạo đều do các lực bên trong Trái Đất quyết định. Ngoài ra còn phải
tính đến vị trí của các bộ phận lục địa so với đại dương. Vị trí này cũng ảnh
hưởng đến sự thay đổi không chỉ khí hậu mà còn tới cả toàn bộ thiên nhiên theo
hướng kinh tuyến.
Các quy luật phi địa đới ở Việt Nam
bao gồm:
-
Quy luật phân hoá theo kinh độ ( quy luật địa ô )
-
Quy luật phân hoá đai cao
1.2.1. Quy luật phân hoá theo
kinh độ ( quy luật địa ô )
a. Sự phân
hoá của tự nhiên theo hướng kinh tuyến
Trên
Trái Đất có sự phân bố kế tiếp các múi lục địa và đại dương theo hướng kinh
tuyến chạy dài từ Bắc cực tới châu Nam Cực.
Bản chất của quy luật phân hoá theo
kinh độ là sự thay đổi tuần tự các hiện tượng địa lí trên các lục địa tuỳ thuộc
vào mức độ xa bờ đại dương đến trung tâm lục địa. Quy luật phân hoá theo kinh tuyến của các thể tổng hợp địa lí tự nhiên cũng
như các thành phần của cảnh quan tự nhiên còn được nhiều nhà địa lí trên
thế giới gọi là tính địa đới theo kinh tuyến.
Bản chất của quy luật phân hoá theo kinh tuyến là sự khác nhau giữa bề mặt lục
địa và bề mặt đại dương trong quá trình tiếp nhận năng lượng bức xạ mặt trời. Thông
thường năng lượng bức xạ mặt trời tiếp nhận được trên 1 đơn vị diện tích
ở đại dương lớn hơn ở trên lục địa từ 10 – 20%.
Một
số nhà địa lí gọi sự phân hoá theo kinh tuyến tương tự như tính địa đới
theo vĩ độ của các cảnh quan tự nhiên là tính địa ô. Người ta đề nghị phân chia
trên mỗi lục địa ra thành 3 địa ô theo chiều
kinh tuyến: 2 địa ô đại dương và 1 địa ô lục địa ( Cômarôv, 1921 ).
Tuy nhiên sự phân hoá địa lí theo
kinh tuyến biểu hiện không phải đồng đều ở mọi nơi trên bề mặt Trái Đất. Phụ thuộc vào đặc điểm hoàn lưu khí quyển, kích
thước, hình dáng và vị trí địa lí của
lục địa khiến số lượng địa ô ở các vĩ độ có sự khác nhau: đầy đủ nhất là 3 địa
ô, quan sát thấy ở các vĩ độ ôn đới của lục địa Âu – Á do sự tồn tại của khối lục địa rộng lớn trải trên 200 độ kinh tuyến và do
sự chuyển động của các khối khí theo hướng
Đông – Tây; 2 địa ô đối với vòng đai gió mậu dịch: địa ô hoang mạc ở bờ Tây do không có điều kiện cho các khối khí đại dương xâm
nhập tới, vì sự thống trị của gió có thành
phần Đông, và địa ô ẩm ướt ở phía Đông của các lục địa nhờ có gió mùa tạo nên
dư thừa ẩm, đặc biệt là vào mùa hạ. Ở các vĩ độ xích đạo và miền cận cực, có sự
phân hoá địa lí theo kinh tuyến biểu hiện
không rõ rệt ( sự vận chuyển theo chiều ngang của các khối khí ở xích
đạo yếu và gần như đông nhất ở cận cực).
b.
Biểu hiện của quy luật
phân hoá theo kinh độ ở Việt Nam.
Xét
về mặt vị trí theo kinh độ Việt Nam nằm gọn trong á địa ô của địa ô gió mùa
Châu Á.
Đó
là á địa ô gió mùa Đông Nam Á (hoặc Trung - Ấn). Khu vực này vừa có chế độ
gió mùa phức tạp, vừa mang tính chất trung gian chuyển tiếp. Sự gặp gỡ và giao
thoa giữa gió mậu dịch bán cầu Bắc ( khối khí
chí tuyển TBDg và Tm ) với gió muà Đông Bắc
(
khối khí cực đới lục địa NPc, khối khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa (Tp) và
gió mùa Tây Nam ( khối khí xích đạo Em, khối khí nhiệt đới
biển Bắc Ấn Độ Dương hay còn gọi là khối khí chí tuyến vịnh Bengan TBg
) cộng với vai trò của bức chắn địa hình đã tạo nên sự phân hoá Đông – Tây trên lãnh thổ Việt
Nam. Hai hướng gió chính Đông Bắc về mùa đông và hướng Tây Nam về mùa hạ đều
gần như thẳng góc với các dãy núi lớn chạy theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam; hướng gió Đông Nam trong mùa hạ của gió
mậu dịch bán cầu Bắc và các dãy núi hướng vòng cung ( á kinh tuyến ) là những
nhân tố chính làm xuất hiện quy luật địa ô ở Việt Nam. Có thể nói sự phân hoá
theo kinh độ này chủ yếu do hiệu ứng phơn và tác
dụng của bức chắn địa hình, còn vai trò của vị trí so với biển
thì lại ít tác dụng hơn trong việc hình thành quy luật này, vì hình dáng nước
ta hẹp ngang và chạy dài dọc theo hướng kinh tuyến. Nơi gió mùa Đông Bắc trực
tiếp tràn vào sẽ lạnh hơn nơi khuất gió đến vài ba độ (0C )
và do có mưa front và mưa địa hình nên cũng ẩm hơn. Cũng như vậy,
nơi đón gió mùa Tây Nam cũng ẩm hơn và ít nóng hơn nơi chịu hiệu ứng phơn ( gió Tây khô nóng ). Các dãy núi giữ vai trò quan
trọng như các bức chắn địa hình là dãy
Hoàng Liên Sơn, dãy núi biên giới Việt Lào, dãy Trường Sơn, tiếp đến là dãy
Ngân Sơn và khối núi Kon Tum. Đây chính là nhân tố tạo nên sự khác nhau rõ rệt
về tự nhiên giữa các khu vực: Việt Bắc và Đông Bắc, Việt Bắc và Tây Bắc, giữa Bắc Trường Sơn và Lào, sườn Đông của Nam
Trường Sơn và Tây Nguyên.
Căn
cứ vào độ lục địa thì ở Việt Nam biên độ nhiệt độ năm lớn hay nhỏ sẽ kéo
theo sự tăng hay giảm độ lục địa. Nơi có độ lục địa lớn nhất là miền Bắc và Đông
Bắc Bắc Bộ với nhiệt độ trung bình năm 12 – 140C ( Hà Nội 12,50C
), tiếp đến là miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
với biên độ trung bình từ 10 – 120C ( Sơn La 10,50C.
Quảng Trị 10,10C ). Từ phía Nam đèo Hải Vân biên độ nhiệt
xụống dưới 100C ( Đà Nẵng 7,90C ) và cuối cùng là từ phía Nam Nha Trang biên độ xuống dưới 50C
( đạt tiêu chuẩn khí hậu xích đạo ) ( thành phố Hồ Chí Minh 3,20C
).
Như vậy, sự phân hoá rõ rệt nhất theo
kinh độ một lần nữa cho thấy là do tác động của gió mùa Đông Bắc biểu hiện bằng
sự tương quan nhiệt ẩm cũng tương tự như đối với sự phân hoá theo vĩ độ.
Sự phân hoá theo kinh độ còn thể
hiện qua giới sinh vật, và rõ rệt nhất qua sự phân bố của thảm thực vật tự nhiên. Các yếu tố bản địa và đặc hữu cùng với các
luồng di cư thực vật được thể hiện rõ ở ba miền địa lí thực vật có độ
lục địa khác nhau và có liên quan khá chặt
chẽ với nhau. Miền Đông Bắc và Bắc Trung Bộ đến vĩ tuyến 160B là
ranh giới cuối cùng của khu phân bố Lim ( Eythrophlolum Fordii ). Trong
miền này tồn tại chủ yếu những yếu tố bản địa
và đặc hữu của khu hệ Đệ Tam Nam Trung Hoa -
Bắc Việt Nam như Re (
Lanraceeeac), Dẻ (Fagceac), Dâu tằm ( Moraceac), Đậu (Leguminosae). Miền Tây Bắc và Trường Sơn đến vĩ tuyến 100B
là giới hạn cuối cùng của Thông hai lá ( Pinus merkusii ). Ở các đai cao ẩm ướt chủ yếu tồn tại các loài của luồng thực
vật Himalaya. Trong đó chủ yếu là loài lá kim ngành phụ hạt trần (
Gumnos permae ), Thông 3 lá ( Pinus kha Sya
), Pơ mu ( Fokiena- hodginssi ). Ở các vùng thấp khô hạn, thuộc Tây Bắc,
Tây Nguyên có các loài thực vật rụng lá mùa
khô có nguồn gốc từ Ấn Độ - Mianma. Miền Nam Bộ và Trung Trung Bộ đến vĩ tuyến 180B chủ yếu là các yếu
tố của luồng Mã Lai – Indônêxia, tiêu
biểu là họ Dầu ( Dipterocarpaceac) . Ngoài ta, một số loài như Sau sau
(
Liquydambar Formosana ) , Lim (Eythrophlolum Fordii), Sim ( Rhodomyrtus
tomentosa ),
Thanh hao ( Baecké Futescens), chỉ phân bố ở
khu vực phía Đông, ngược lại Săng lẻ (
Legerstrocmia tomentosa), Tếch ( Tectonia Grandis), Thung( Tetrametes nudiflora
), Chiêu liêu ( Terminalisp ) chỉ gặp ở khu vực phía Tây nơi có mùa khô dài và
sâu sắc.
Quy
luật phân hoá phi địa đới của địa lí của tự nhiên còn do sự không đồng nhất về
cấu trúc hình thái của bề mặt lục địa. Tham gia vào việc tạo nên quy luật này
là các nhân tố: thành phần nham thạch, đá , lịch sử phát triển tự nhiên và đặc
điểm cấu trúc địa hình, đặc điểm về chế độ nước của các cảnh quan ( độ thấm
nước, mạng lưới thuỷ văn ); thành phần
khoáng chất của đất, tính thoát nước, mức độ muối hoá, sự phát triển của các
quá trình thổ nhưỡng, cấu trúc thành phần loài của quần xã thực vật.
Cấu trúc hình thái địa hình được coi
như một nhân tố hình thành khí hậu . Thực tế cho
thấy, có nhiều dãy núi kéo dài theo hướng vĩ tuyến là những chướng ngại đối với
sự xâm nhập của các khối khí từ phương Bắc tràn xuống
hoặc từ phương Nam tràn lên, làm tăng thêm sự tương phản địa đới theo vĩ tuyến
giữa hai phía của các sườn. Còn các
khối núi chạy dọc theo chiều kinh tuyến ( nhất là ở các miền ven biển tiếp giáp
với biển ), lại có tác dụng ngăn chặn sự
xâm nhập của các khối khí từ biển vào sâu trong lục địa, góp phần làm tăng thêm
sự khác biệt của khí hậu theo kinh tuyến ( địa ô ). Ngoài ra, ở các đồng
bằng , dưới ảnh hưởng của dãy núi xuất hiện các cảnh quan đặc biệt là các cảnh
quan chân núi đón gió ( hoặc các cảnh quan khuất gió ).
1.2.2. Quy luật phân hoá đai cao.
a) Sự phân hoá của tự nhiên theo độ cao
Tính vành đai theo độ cao ( còn được gọi là
tính địa đới theo chiều thẳng đứng ), là một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của
quy luật phi địa đới. Sự thay đổi các thành phần và cảnh quan tự nhiên diễn ra theo độ cao dưới dạng các dải và các vành
đai ở vùng núi, đặc biệt là ở các vùng núi cao. Nguyên nhân chính của sự
hình thành các vành đai theo độ cao là sự thay đổi các điều kiện nhiệt độ khi
lên cao. Tuy nhiên, sự thay đổi này không giống như sự thay đổi theo vĩ độ. Như đã biết, ở miền núi, cán cân nhiệt được
hình thành như sau: cường độ bức xạ
mặt trời tăng theo độ cao khoảng 10% đối với 1000m, trong khi đó bức xạ sóng dài của bề mặt đất đồng thời cũng tăng
và còn tăng nhanh hơn so với bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời, dẫn tới có sự hạ thấp nhiệt độ nhanh chóng ( gradien
nhiệt độ theo chiều thẳng đứng vượt
gradien nhiệt độ theo chiều ngang hàng trăm lần ). Điều đó có nghĩa là nhiệt độ hạ xuống theo
độ cao ở các miền núi nhanh hơn gấp hàng trăm lần so với sự thay đổi theo vĩ độ
( theo chiều ngang ) ở các đồng bằng.
Điều kiện ẩm ướt cũng thay đổi theo độ cao.
Thông thường, ở độ cao lớn, lượng ẩm của
không khí và lượng mưa giảm, song do vai trò của bức chắn của các dãy núi không
khí chứa nhiều hơi nước ở dưới thấp được bốc
lên cao, nhiệt độ giảm có điều kiện thuận lợi cho sự ngưng kết thành mây và gây
mưa với lượng mưa tăng lên tới một giới hạn độ cao nào đó ( giới hạn này
không đồng nhất ở các vùng khác nhau ), sau đó giảm xuống. Vì vậy sự phân bố
điều kiện ẩm ở các vùng núi khá đa dạng và phức tạp.
Sự phân hoá theo độ cao còn được thể
hiện ở các thành phần tự nhiên khác như các quá
trình địa mạo đặc thù của miền núi ( núi lở, trượt đất…), không hề thấy ở các
cảnh quan đồng bằng. Miền núi có mạng lưới thuỷ văn rất đặc biệt, với
các dòng sông suối chảy xiết, lắm thác ghềnh khắc hẳn với các dòng sông ở đồng
bằng. Hiện tượng băng tuyết trên núi cũng không giống như các lớp phủ băng
tuyết ở vùng cực. Thổ nhưỡng miền núi khác với
thổ nhưỡng đồng bằng ở chỗ phẫu diện mỏng và chứa nhiều vật liệu thô vụn, với thành phần các khoáng nguyên sinh và cuối cùng thể
hiện rõ rệt nhất là sự phân bố các kiểu quần xã sinh vật theo độ cao.
Sự
sắp xếp các vành đai theo độ cao từ thấp lên cao, có nhiều nét tương tự như sự
sắp xếp các đới tự nhiên theo vĩ độ từ xích đạo về phía hai cực. Song sự sắp
xếp này có phần phong phú và đa dạng
hơn. Đặc tính và số lượng các kiểu vành đai theo độ cao phụ thuộc vào vị trí địa lí của khối núi và đặc
điểm sơn văn của nó. Từ hai cực về phía xích đạo số lượng của các vành
đai theo độ cao tăng lên.
Cuối
cùng, cần nhận rõ bản chất của sự phân hoá vành đai theo độ cao là sự phân hoá phi địa đới mà nguyên nhân sâu xa của nó là do
các lực bên trong Trái Đất gây ra.
b) Biểu
hiện quy luật phân hoá đai cao ở Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam với hơn ¾ diện tích
là đồi núi nên có điều kiện dễ dàng nhận ra quy
luật phân hoá đai cao. Mỗi khối núi có một hệ thống đai cao riêng. Hệ thống này
tuỳ thuộc vào độ cao tuyệt đối; vào vị trí của nó trong một đới, á đới, một địa
ô, á địa ô; vào lịch sử phát triển và đặc điểm hình thành của khối núi
đó.
Việc
xác định số lượng, tính chất và giới hạn của các đai cao, đặc biệt là ranh giới
các sinh vật và lấy điều kiện nhiệt - ẩm làm cơ sở. Việc xác định ranh giới các
đai cao chủ yếu dựa vào tài liệu khí hậu, mà
cơ sở là dựa vào đặc điểm khí hậu mùa hạ, là mùa dài nhất, có ý nghĩa
quyết định nhất đến sự phát sinh và phát triển của các điều kiện tự nhiên, đồng thời cũng là mùa mà sự phân hoá đai cao diễn
ra đồng nhất trên cả nước. Còn tác dụng của mùa đông thể hiện qua nhiệt
độ trung bình năm cũng như những sự so le về ranh giới đai của các thành phần
tự nhiên khác như thổ nhưỡng, sinh vật sẽ được xét ở cấp thấp hơn, cấp á đai.
Như vậy, sẽ hình thành một hệ thống đai cao thống nhất cho toàn quốc, chỉ đến hệ thống các á đai mới có sự phân hoá cụ thể cho
từng đới, từng miền, từng khu địa lí tự nhiên.
Thực tế cho thấy, trong mỗi đai chỉ
có điều kiện là đồng nhất, còn tương quan nhiệt - ẩm thì lại xen kẽ kiểu bức khảm. Lượng mưa thay đổi nhanh chóng trong một
không gian rộng lớn, như ở khu vực sườn đón gió và khu vực khuất gió,
như ở đồi thấp chân núi và sừơn núi cao, nên trong phạm vi một đai cao đồng
nhất về điều kiện nhiệt vẫn tồn tại sự xen kẽ
của cả 5 tương quan nhiệt ẩm là: khô ( K< 1,0 ), hơi khô ( K=1.0¸1,5
), hơi ẩm
( K=1,5¸2,0 ), ẩm ( K= 2,0¸3,0 ), và ẩm ướt (
K>3,0 ). Tuy nhiên, thiên nhiên nước ta nói chung có tính chất ẩm với tương quan nhiệt - ẩm là hơi ẩm (K từ 1,51 đến
2,0 ) và ẩm
( K
từ 2,01 đến 3,0 ) vẫn chiếm ưu thế (theo chỉ số thủy nhiệt của Xêlianhinov K=R/0.1.Σt-theo
Vũ Tự Lập, 1976). Chính vì thế thảm thực vật tự nhiên ở nước ta chiếm ưu thế
vẫn là rừng xanh quanh năm và rừng nửa rụng lá.
Trên lãnh thổ nước ta, tồn tại một hệ
thống gồm ba đai cao và các á đai sau:
-
Đai nhiệt đới khô đến ẩm ướt chân núi có độ cao dưới 600m.
Đặc trưng của đai này có một mùa hạ nóng
, nhiệt độ trung bình tháng ³ 250C, đáp ứng
như cầu cao về nhiệt độ của các loài cây về nhiệt đới và xích đạo và có tổng
nhiệt độ hoạt động > 7500°C .
Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm của
các trạm có độ cao dưới 600m từ Bắc vào
Nam, từ Đông sang Tây, từ đất liền ra hải đảo có sự thống nhất trong đai này là
luôn luôn có các tháng mùa hạ ( từ tháng 4, 5
đến tháng 10 ) có nhiệt độ trên 250C . Từ biên giới phía Bắc cho đến
đèo Ngang, mùa hạ có nhiệt độ trung bình hàng tháng trên 250C dài
nhất chỉ có 5 tháng ở độ cao dưới 300m, ở các nơi có độ cao >300m có thể rút
ngắn lại còn 3 tháng. Tại Bình-Trị-Thiên mùa hạ nóng trên 250C
kéo dài đến 7 tháng, nhưng ở các nơi có độ
cao > 300m cũng chỉ còn 3 tháng. Ở khu vực phía Nam, gần như quanh năm nóng
với nhiệt độ trung bình hàng tháng trên 250C, ở các địa phương có độ
cao >300m mùa nóng kéo dài tới 6
tháng, các địa phương có độ cao >500m vẫn có độ dài mùa nóng là 5 tháng. Như vậy có thể lấy độ cao 300m
làm ranh giới á đai. Riêng ở khu vực phía
Bắc độ cao 100m cũng là ranh giới á đai vì chỉ dưới độ cao này mới không có mùa đông rét ( nhiệt độ trung binh tháng < 150C
), cây nhiệt đới khó tồn tại ở ngưỡng này. Vì vậy, trong đai nhiệt đới
khô đến ẩm ướt được chia ra thành ba á đai.
+ Á đai từ độ cao 10m
đến 100m:
Miền Bắc không có mùa
đông rét.
Miền Nam nóng quanh năm
.
+ Á đai từ độ cao 100m đến 300m:
Miền Bắc có nơi đã có mùa đông rét.
Miền Nam mùa nóng đã
giảm xuống.
+ Á đai từ độ cao 300m đến 600m:
Miền Bắc nhiều nơi có
mùa đông rét.
Miền Nam mùa nóng giảm
đi một nửa.
- Đai á nhiệt đới hơi ẩm
đến ẩm ướt trên núi có độ cao từ 600m đến 2600m
Đặc trưng của đai này là
có mùa hạ mát, nhiệt độ trung bình tháng dưới 250C và có tổng nhiệt độ hoạt động > 45000C. Đai này ít có sự biến
động theo địa phương và trong đai không có tương quan nhiệt ẩm khô và
hơi khô ( K từ < 1,0 đến 1,5 )
Do bề dày của luồng gió mùa Đông Bắc trung bình chỉ đến độ cao 1500m nên
bên trên độ cao này thường có các luồng gió nhiệt đới trên cao, đặc biệt
là tại các tầng 850mb
( ở độ cao 1500m ) và tầng 700mb ( ở độ cao 3000m
), từ áp cao Thái Bình Dương hoạt động hầu như quanh năm.
Đai á nhiệt đới hơi ẩm đến
ẩm ướt trên núi có thể phân ra thành ba á đai:
+ Á đai từ độ cao 600m
đến 1000m:
Tại á đai này, chế độ
nhiệt còn mang tính chất chuyển tiếp, như ở khu vực phía Bắc nhiệt độ những tháng mùa đông còn cao hơn so với
các khu vực vòng á đai nhiệt đới theo
chiều ngang ( tại Athen- Hy Lạp, ở vĩ độ 37058’B, nhiệt độ trung
bình các tháng mùa đông vẫn xuống dưới 100C
) và ở khu vực phía Nam, số tháng nhiệt độ trung bình tháng trên 200C
vẫn chiếm đa số. Các loài cây nhiệt đới dễ tính và đất Feralit đỏ vàng còn xuất
hiện á đai này.
+ Á đai từ độ cao 1000m
đến 1600m:
Trong á đai này thực bì
và thổ nhưỡng mang sắc thái á nhiệt đới rõ rệt, các loài Dẻ ( Fagceac ), Re ( Lauraceac ), chiếm ưu thế tuyệt
đối trên đất mùn Feralit vàng đỏ
( quá trình tích mùn đã trở thành
chủ đạo, nhưng vẫn còn có sự tích luỹ sắt ).
+ Á đai từ độ cao 1600m
đến 2600m:
Á đai này cũng mang tính chất chuyển tiếp lên đai ôn đới. Ở đây không
còn tháng nào có nhiệt độ trung bình tháng trên 200C,
tháng nóng nhất cũng chỉ xấp xỉ nhiệt độ mùa hạ ôn đới. Tuy vậy mùa đông vẫn
còn ẩm hơn mùa đông ở miền ôn đới. Quá trình Feralit chấm dứt hoàn toàn và thay
vào đó là đất mùn Alit, rừng rêu phát triển.
- Đai ôn đới hơi ẩm đến
ẩm ướt trên núi từ độ cao trên 2600m.
Đai này chiếm diện tích
nhỏ, chỉ phát triển ở một số vùng núi cao ở miền Bắc Việt Nam ( Hoàng Liên Sơn, PuSiLung ). Ở miền Nam, đỉnh
cao nhất ( Ngọc Linh 2598m ) cũng chưa
đạt độ cao của đai này. Trong đai này, thực vật ôn đới chiếm đa số tuyệt đối,
đặc biệt là hai loài cây lá Kim chỉ xuất hiện
từ độ cao 2600m trở lên như Thiết sam
( Tsugay Ynnanensis)
, Lãnh sam ( Abies Pindrow ). Đặc biệt từ độ cao trên 2800m
( PuTaLeng, 3096m, Pu Luông
2985m, Sà Phìn 2874m đều thuộc dãy Hoàng Liên Sơn ), họ Tre trúc lùn chiếm ưu
thế, có nơi phát triển thành thảm thấp 20- 30 cm dày đặc. Ở đai này nếu có sự phân hoá thành á đai thì nguyên nhân
chính lại do địa hình và thổ nhưỡng quyết
định chứ không phụ thuộc vào nhiệt độ. Cũng có thể nhận biết ở đai này có hai á
đai:
+ Á đai có thực bì cằn cỗi: Á đai này gồm họ Tre trúc lùn ở trên các
đường đỉnh hẹp, dốc, gió mạnh, đất mỏng trơ đá gốc.
+ Á đai có thực bì hỗn giao: Á đai này có trên các
sườn ẩm hơn. Đất dày hơn với thực bì hỗn giao lá rộng – lá kim với họ Đỗ
quyên ( Ericaceac ) chiếm ưu thế.
1.3
. Quan hệ giữa các quy luật phân
hoá
Các quy luật phân
hoá trên thực tế không tác động riêng rẽ, độc lập mà chúng tác động đồng
thời , tương hỗ, Tuỳ theo từng lúc, từng nơi mà quy luật này hay quy luật khác giữ vai trò yếu hay trội, chi phối sự hình
thành và chiều hướng phát triển của các quá trình tự nhiên trong các địa tổng
thể. Trước hết là mối quan hệ giữa hai dạng cơ bản của
quy luật phi địa đới là quy luật phân hoá theo kinh độ và quy luật phân hoá đai
cao có liên hệ chặt chẽ với nhau. Các ranh
giới khí hậu theo kinh tuyến thường phù hợp với các bức chắn sơn văn. Những sự phân chia bề mặt lãnh thổ
theo hình thái kiến tạo lớn ( như xứ Hoa Nam, xứ Đông Dương ), lại là
những khu vực được phân biệt theo vị trí của nó
đối với ảnh hưởng của biển và đại dương của quy luật phân hoá theo kinh độ
những khu vực chịu ảnh hưởng của các
điều kiện hình thành, di chuyển, biến tính của các khối khí, theo mức độ
lục địa của khí hậu và của cả vai trò của vị trí trên cao. Thêm vào đó các khối núi không chỉ tạo nên quy luật phân hoá theo
vành đai độ cao riêng biệt của nó mà còn ảnh hưởng quan trọng đến các
cảnh quan tự nhiên của đồng bằng và các khu vực núi khác lân cận. Mặt khác, số lượng và cấu trúc của vành đai trong phạm vi
một đới cảnh quan cũng không đồng nhất và thường bị phụ thuộc vào các nhân tố
khí hậu phân hoá theo kinh tuyến (mức độ ẩm ướt) và mức độ lục địa (độ lục địa).
II.
PHÂN VÙNG ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VIỆT NAM
2.1.
Hệ thống phân vị phân vùng địa lí tự nhiên Việt Nam
Trong hai tác phẩm"Cảnh quan địa lí miền Bắc Việt Nam",
1976 và "Địa lí tự nhiên Việt Nam"
(phần khu vực), 1974, Vũ Tự Lập đã đưa ra một hệ thống các đơn vị phân vùng địa
lí tự nhiên (gọi tắt là hệ thống phân vị).Hệ thống này được xây dựng theo những
nguyên tắc rõ ràng, phản ánh đúng đắn mối quan hệ giữa các quy luật phân hoá
không gian của địa lí quyển; đồng thời có đầy đủ các cấp (phần đất liền) để có
thể phân vùng ở mọi tỉ lệ cho các kích thước lãnh thổ lớn nhỏ, cho cả miền núi
và đồng bằng. Ngoài ra trong hệ thống này còn có những đơn vị chủ yếu (những
đơn vị bắt buộc) có chỉ tiêu chính xác để làm chỗ dựa cho việc phân vùng một
lãnh thổ theo cách tiến hành "từ trên xuống " hoặc "từ dưới
lên" từ cấp lớn nhất (địa lí quyển) đến cấp nhỏ nhất (điểm địa lí). Hệ
thống này được thể hiện bằng sơ đồ sau: (hình 1). Qua sơ đồ này, cho thấy một
mặt phải xét đồng thời các quy luật phân hoá, vì trên thực tế các quy luật địa
đới và phi địa đới xâm nhập vào nhau và tác động tương hỗ nhau. Nhưng mặt khác,
lại phải thấy sự thống nhất giữa các quy luật này là sự thống nhất biện chứng,
có mâu thuẫn, nghĩa là có lúc, có nơi một quy luật nào đó sẽ trội và quy luật
kia chỉ giữ vai trò thứ yếu. Hơn nữa các quy luật phân hoá này có tính độc lập
tương đối vì có nguồn gốc phát sinh riêng nên không thể xếp vào các đơn vị do
chúng hình thành trong mối quan hệ trực tiếp trên dưới mà phải sắp xếp các cấp
phân vị theo hai dãy (địa đới và phi địa đới). Một xứ không thể nằm gọn trong
phạm vi một đới và ngược lại một đới cũng có thể chạy qua nhiều xứ.Vì thế hệ
thống phân vị này có hai đoạn, các cấp phân vị được sắp xếp theo hai dãy (địa
đới và phi địa đới). Tuy nhiên, song song tồn tại với sự sắp xếp hai dãy này,
xen kẽ lại có những đoạn các cấp phân vị trong hệ thống được sắp xếp theo một
dãy, hình thành nên một số cấp do sự đan cắt giữa hai dãy địa đới và phi địa
đới (ví dụ cấp miền địa lí, khu địa lí). Ngoài ra trong hệ thống này còn thấy
có một số cấp phân vị chỉ có một khu vực núi (khối, đai cao, á đai cao)và một
số cấp khác chỉ có mặt ở khu vực đồng bằng (á khu, á cảnh).
Trong tài liệu này,về cơ
bản chúng tôi dựa vào sơ đồ phân vùng theo hệ thống phân vị của Vũ Tự Lập. Tuy
vậy chúng tôi chỉ phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ Việt Nam, phần đất liền,
tới cấp khu và có sự điều chỉnh một số khu trong ba miền tự nhiên của nước ta.
(Hình 1)
Địa lí quyển

Đất liền Đại dương
Ô địa lí Vòng
địa lí
Xử địa lí Đới địa lí
Miền địa lí
Khu địa lí
Khối địa lí
Đai
cao địa lí Á
khu địa lí
Cảnh địa lí
Á đai cao địa lí Á cảnh địa lí
Nhóm dạng địa lí
Dạng địa lí
Á dạng địa lí
Nhóm diện địa lí
Diện địa lí
Điểm địa lí
Hình
1. Hệ thống phân vị của Vũ Tự Lập (1976)
2.2.
Những chỉ tiêu cơ bản để chẩn đoán các cấp phân vị
Hiện
nay đối với mỗi cấp phân vị đều có một phức hệ chỉ tiêu định tính và định
lượng. Các chỉ tiêu chẩn đoán là những dấu hiệu dưạ vào đó, bất kỳ người làm
công tác phân vùng nào cũng có thể xác định xem một khu vực nào đó là địa tổng
thể thuộc cấp nào. Cấc cấp phân vị có nhiều nhưng ở đây chỉ đề cập tới các cấp
có thể gặp trên lãnh thổ Việt Nam.
2.2.1. Vòng địa lý
Vòng
địa lý là đơn vị được dùng để phân chia các lãnh thổ rộng lớn như một châu lục,
một bán cầu. Cấp này được xác định dựa vào nền tảng nhiệt hoặc là cán cân bức
xạ tính theo kcal/cm2/năm, hoặc là tổng nhiệt độ trên 100C
(vì theo Buđưcô tổng nhiệt độ trên 100C chia cho 100 xấp xỉ với trị
số cán cân bức xạ). Tuy nhiên, tại một số nơi hai giá trị này không trùng khớp,
nhất là ở các khu vực miền núi và khu vực có gió mùa như ở nước ta, tổng nhiệt
độ giảm nhanh hơn cán cân bức xạ, nên tại những nơi này có sự thay thế tổng nhiệt độ trên 100C bằng tổng
nhiệt độ trên 00C. Số lượng các vòng địa lý thay đổi, ít nhất là 2
(nội chí tuyến và ngoại chí tuyến), nhiều nhất là 7 (cực, cận cực, ôn đới, á
nhiệt đới, á xích đạo và xích đạo). Đa số các nhà địa lý phân chia ra 5 vòng
địa lý, bao gồm:
-
Xích đạo: tổng nhiệt độ trên 95000C
-
Nhiệt đới: tổng nhiệt độ trên 75000C
-
Cận nhiệt đới: tổng nhiệt độ trên 45000C
-
Ôn đới: tổng nhiệt độ trên 17000C
-
Hàn đới: tổng nhiệt độ dưới 17000C
Theo
Vũ Tự Lập, nếu chỉ tiêu của vòng địa lý chủ yếu dựa vào chu kỳ quang thì nên
chia vào ba vòng địa lý, trong mỗi vòng sẽ căn cứ vào tổng nhiệt độ mà chia nhỏ
thành các vòng phụ. Ba vòng đó là: 1. Vòng cực; 2. Vòng ngoại chí tuyến; 3.
Vòng nội chí tuyến. Như vậy, Việt Nam nằm trọn vẹn trong vòng nội chí tuyến
(nhiệt đới) với tổng nhiệt độ trên 75000C và xích đạo với tổng nhiệt
độ trên 95000C.
2.2.2. Đới địa lý
Đới
địa lý là đơn vị thông dụng nhất trong phân vùng địa lý tự nhiên theo luật địa
đới. Những chỉ tiêu cơ bản để xác định các đới địa lý là:
-
Đới có một chỉ số tương quan nhiệt - ẩm nhất định (chỉ số ẩm ướt N.N. Ivanov và
G.N Vưxotxki; chỉ số khô hạn của A.A Grigoriev và M.I. Buđưcô hay chỉ số thủy
nhiệt của G.T. Xêlianhinov).
-
Đới phải tương ứng với một kiểu lớp phủ nhưỡng - sinh vật địa đới nhất định,
trong đó chú trọng đến kiểu thực vật địa đới nhiều hơn thổ nhưỡng (quan hệ giữa
thực vật với khí hậu - nhân tố chủ yếu tạo đới - mật thiết hơn so với quan hệ
giữa thổ nhưỡng với khí hậu). Thổ nhưỡng là thành phần bảo thủ hơn, phản ứng
chậm hơn đối với điều kiện khí hậu. Ranh giới của đới ở ngoài thực địa được xác
định theo các kiểu thổ nhưỡng - thực vật địa đới (Thí dụ: Đới rừng rậm nhiệt
đới gió mùa trên đất Feralit đỏ vàng).
Trên
thực tế việc xác định các đới gặp khó khăn nhất định: Một là các chỉ tiêu định
lượng (chế độ nhiệt, hoàn lưu khí quyển, các đặc điểm của tự nhiên phụ thuộc
vào tương quan nhiệt - ẩm) nhiều khi chưa phản ánh hết được các phức hệ khí hậu
(bao gồm các trị số cực đại, cực tiểu, các thời tiết đặc biệt và nhịp điệu
mùa). Hai là việc dựa vào kiểu thực vật địa đới (đặc trưng bằng sự ưu thế của
một dạng sống nhất định kiểu như thân gỗ, cây bụi, thảm cỏ v.v...) cũng không
dễ dàng vì nhiều khi thực vật có biên độ sinh thái rộng, phải chú ý đến cả tình
hình sinh trưởng và lịch sử khu hệ thực vật...
2.2.3. Địa ô (ô địa lý)
-
Ô địa lý là kết quả của sự phân hóa theo
kinh độ. Những biến đổi về khí hậu do sự phân bố lục địa và biển thông qua hoạt
động ưu thế của các khối không khí hải dương - lục địa (gọi tắt là các bình lưu
khí quyển hải dương - lục địa).
-
Ranh giới các ô địa lý thường được xác định theo một trong ba dấu hiệu hoặc sự
kết hợp của cả ba dấu hiệu với nhau. Đó là:
+
Phù hợp với một đường đẳng độ lục địa nhất định;
+
Trùng với các dãy núi lớn là những bình phong chắn các bình lưu khí quyển;
+
Những biến dạng theo độ lục địa của các thực bì địa đới.
Trong
mỗi ô địa lý, do tính chất độc đáo của chế độ nhiệt - ẩm có thể bao gồm một tập
hợp các đới địa lý.
2.2.4. Xứ địa lý
-
Xứ địa lý phải có sự thống nhất của một địa cấu trúc (nền bằng, khiên, vùng uốn
nếp) hoặc có dạng ưu thế của vận động kiến tạo mới nhất, khiến cho các bộ phận
địa - cấu trúc khác nhau có chung những nét đại địa hình (núi, đồng bằng, cao nguyên...). Trong trường
hợp này, có sự xen kẽ giữa một số đơn vị đại địa hình (núi xen đồng bằng, hay
đồng bằng xen núi) thì những đơn vị này phải không tách biệt về mặt lãnh thổ và
phải có liên quan với nhau về lịch sử phát sinh và phát triển.
-
Trong phạm vi rộng, xứ có đặc trưng là có sự thống nhất khí hậu (xứ thường là nơi hình thành các khối
khí, hoặc nếu khối khí từ nơi khác đến
thì bị biến tính rõ rệt), do đó xứ có một đại khí hậu riêng liên quan
đến độ cao tuyệt đối của cứ, đến đặc điểm cấu trúc sơn văn, và đến mức độ lục
địa của khí hậu (chế độ khí hậu là lục địa, đại dương hay gió mùa...)
-
Ranh giới của xứ địa lý chủ yếu được vạch theo đại địa hình, có xét tới cấu
trúc địa chất - kiến tạo và đại khí hậu. Trong trường hợp một xứ núi, lại phải
có những nét riêng trong cấu trúc các vành đai theo độ cao.
2.2.5. Miền địa lý
-
Miền là đơn vị phân hóa phi địa đới bởi nhân tố kiến tạo - địa mạo, song nó lại
có sự đồng nhất về mặt địa đới. Miền là kết quả đan cắt giữa một xứ và một đới.
-
Tại xứ đồng bằng, miền là một khúc đới chạy qua xứ (tương đương với một đới
theo nghĩa hẹp của các hệ thống phân vị xếp theo một dãy). Dó đó miền có mối
quan hệ giữa các thành phần mật thiết hơn so với các đới theo nghĩa rộng.
-
Tại một xứ núi, miền địa lý phân theo cấu trúc đai cao (ở sự sắp xếp các đai
cao và số lượng các vành đai, ở ranh giới các đai cao, tính chất của từng đai và đặc điểm của các thành phần tự
nhiên...).
2.2.6. Khu địa lý
-
Khu là sự phân hóa thứ cấp trong miền, được dùng chung cho cả miền núi lẫn đồng
bằng và được phân hóa ra từ miền do các nguyên nhân địa chất - địa mạo.
-
Ở đồng bằng, khu là một phần của đới, khác với các khu vực bên cạnh bởi những
nét chủ yếu của cấu tạo địa hình và những đặc điểm địa mạo (như điều kiện nham
thạch, các quá trình địa mạo, như bóc mòn, bồi tụ...).
-
Ở miền núi, khu thường tương ứng với một hệ thống sơn văn lớn, có một sự biến
dạng trong cấu trúc đai cao của miền.
Như
vậy, khu là cấp phân vị được phân chia ra trong miền. Số lượng các khu trong
mỗi miền phụ thuộc vào mức độ phức tạp của miền đó.
2.3.
Các đơn vị phân vùng địa
lí tự nhiên lãnh thổ Việt Nam
Vận
dụng các hệ thống phân vị và chỉ tiêu cơ bản chuẩn đoán các cấp phân vị trên,
có thể xác định trên lãnh thổ Việt Nam có các cấp phân vị sau:
-
Vòng đai địa lý
Việt
Nam nằm trọn trong vòng đai nội chí tuyến. Khu vực phía Bắc có tính chất chí
tuyến (biên độ năm tương đối lớn) có một cực tiểu và một đại trong chế độ nhiệt
và chế độ mưa. Khu vực phía Nam có tính chất á xích đạo với chế độ nhiệt quanh
năm nóng và khá điều hòa.
-
Đới địa lí
Trên
lãnh thổ Việt Nam có hai đới địa lý chạy qua. Đó là:
1. Đới rừng gió mùa chí tuyến (hay đới
rừng gió mùa nhiệt đới):
Đới
rừng gió mùa chí tuyến bao gồm toàn bộ miền Bắc Việt Nam, có ranh giới phía Nam
xấp xỉ vĩ độ 16OB (đèo Hải Vân), có tổng nhiệt độ năm trên 7500OC
và có hệ số tương quan nhiệt - ẩm > 1,5. Đới này có hai á đới:
1a.
Á đới có mùa động lạnh và khô. Á đới này bao gồm toàn bộ miền Bắc Việt Nam cho
tới đèo Ngang ở xấp xỉ vĩ độ 18OB, có đặc trưng là phần lớn lãnh thổ
có 3 tháng nhiệt độ < 18OC và có 3 tháng lượng mưa nhỏ hơn lượng
bốc hơi.
1b.
Á đới không có mùa đông và mùa khô rõ rệt, á đới này nằm trọn trong khu vực từ
đèo Ngang tới đèo Hải Vân, có đặc trưng là nóng và ẩm hơn á đói trê, trong thời
kì mùa động cũng có một số ngày có thời tiết lạnh và khô khi gió mùa Đông Bắc
hoạt động mạnh.
2. Đới rừng gió mùa á xích đạo:
Đới
rừng gió mùa á xích đạo bao gồm toàn bộ phần lãnh thổ Việt Nam còn lại, từ đèo Hải Vân trở vào, có tổng
nhiệt độ năm nhiều nơi trên 9500OC và hệ số tương quan nhiệt - ẩm
> 1,5. Đới này có hai á đới:
2a.
Á đới không có mùa khô rõ rệt. Á đới này nằm trong khoảng vĩ độ từ 16OB
(đèo Hải Vân) đến vĩ độ 14OB
(Quy Nhơn). Đặc trưng của á đới này là quanh năm nóng, nhiệt độ tháng
thấp nhất cũng là trên 20OC, có lượng mưa khá lớn và mùa mưa kéo
dài.
2b.
Á đới có mùa khô rõ rệt, kéo dài. Á đới này bao gồm phần còn lại từ vĩ độ 14OB
trở vào cho đến bán đảo Cà Mau. Á đới này có đặc trưng là có mùa khô điển hình
nhất ở nước ta, kéo dài tới 4 - 5 tháng.
-
Các đơn vị phi địa cỡ lớn mà lãnh thổ Việt Nam chỉ là một bộ phận:
+ Á địa ô
Nước
Việt Nam chỉ là một bộ phận của địa ô gió mùa châu Á và được xác định trong á
địa ô gió mùa Đông Nam Á. Á địa ô gió mùa Đông Nam Á có đặc điểm cơ bản là có
sự thay đổi theo mùa của những khối khí lục địa lạnh khô và những khối khí hải
dương nóng ẩm. Với ưu thế của tính chất
hải dương, có lượng nhiệt - ẩm dồi dào, tạo nên những đới rừng liên tục
từ Bắc vào Nam.
+ Xứ địa lý
Việt
Nam nằm ở nơi tiếp xúc với hai xứ địa lí tự nhiên, ranh giới được vạch theo
thung lũng sông Hồng. Đó là:
A.
Xứ Hoa Nam - Bắc Việt Nam - Một phần
lãnh thổ phía Bắc Việt Nam nằm ở khu vực rìa Đông của nền Hoa Nam.
B.
Xứ Đông Dương - Đại bộ phận lãnh thổ Việt Nam nằm ở khu vực địa máng Trung sinh
Đông Dương, bao gồm cả các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma.
+ Miền địa lý
Việt
Nam có ba miền địa lí tự nhiên như sau:
1.
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ (kết quả của sự đan cắt giữa xứ Hoa Nam Bắc Việt
Nam và đới rừng gió mùa chí tuyến).
2.
Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ (kết quả của sự đan cắt giữa xứ Đông Dương và đới
rừng gió mùa chí tuyến).
3.
Miền Nam Trung Bộ (kết quả của sự đan cắt giữa xứ Đông Dương và đới rừng gió
mùa á xích đạo).
+ Khu địa lý
Việt
Nam có các khu địa lí tự nhiên sau:
1.
Khu Việt Bắc
2.
Khu Đông Bắc
3.
Khu Đông bằng Bắc Bộ
Ba
khu này nằm trong miền địa lí tự nhiên Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.
4.
Khu Tây Bắc
5.
Khu Bắc Trường Sơn
6.
Khu đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh
7.
Khu đồng bằng Bình - Trị - Thiên
Bốn
khu này nằm trong miền địa lí tự nhiên Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.
8.
Khu Nam Trường Sơn
9.
Khu đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ
10.
Khu Đông Nam Bộ
11.
Khu Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long)
Bốn
khu này thuộc miền địa lý tự nhiên Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ. (Hình 2).

|
2.4.
Đặc điểm chung của miền
địa lý tự nhiên Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
•
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có cấu tạo
địa chất mang tính chất của một miền nền.
Phần
lớn lãnh thổ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là một bộ phận của miền nền Hoa
Nam Trung Quốc. Do tính chất của một miền nền nên về mặt kiến tạo địa chất ở miền này có tính chất ổn
định hơn, ít có những biến động lớn so với miền địa máng thuộc xứ Đông Dương
chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ nước ta.
Do
chỉ là một bộ phận nhỏ, lại nằm ở rìa nền Hoa Nam nên những tác động của hoạt
động kiến tạo chỉ biểu hiện rõ nét nhất ở khu vực rìa ngoài thuộc các khối núi
đá biến chất sông Lô, sông Chảy, sông Hồng.
•
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có các hướng
núi vòng cung, cao ở phía Bắc thấp dần về phía Nam.
Nét
đặc sắc nhất của cấu trúc địa hình của miền là có các dãy núi có hướng vòng
cung rộng mở về phía Bắc. Phần lớn diện tích của miền là đồng bằng, đồi núi
thấp và trung bình. Các khối núi với các đỉnh cao trên 2000m (Tây Côn Lĩnh
2419m, Kiều Liêu Ti 2402m, Pu Tha Ca 2274 m) đều nằm ở khu vực biên giới phía
Bắc thuộc tỉnh Hà Giang. Địa hình thấp dần từ phía Bắc xuống phía Nam.
•
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là nơi chịu
ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc
Do
nằm ở vị trí cao nhất, địa thế mở rộng cửa đón gió mùa Đông Bắc trên đường di
chuyển qua lãnh thổ Trung Quốc xuống phía Nam và địa hình là vùng đồi núi thấp
với các dãy núi vòng cung, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là nơi chịu ảnh hưởng
đầu tiên và tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho gió mùa Đông Bắc dễ dàng xâm
nhập sâu vào lãnh thổ nước ta.
Các
số liệu về tần suất các đợt frông lạnh tràn qua lãnh thổ miền Bắc nước ta đã
nói lên điều đó. Mặt khác, không khí lạnh khi tràn đến miền bắc và Đông Bắc Bắc
Bộ mới tiếp xúc với khối không khí nóng, chưa bị biến tính đi là bao nên nhanh
chóng dẫn đến loại hình thời tiết gió mùa Đông Bắc lạnh và khô. Trong trường
hợp có nhiều đợt frông lạnh tràn xuống liên tiếp và bổ sung sẽ dẫn đến tình
trạng (rét đậm nhiệt độ trung bình xuống dưới 15OC) và rét hại (nhiệt độ trung bình xuống dưới 13OC)
nhiều hơn so với các khu vực khác ở miền Bắc nước ta.
Cũng
chính vì thế, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là miền địa lý tự nhiên có đặc điểm
có khí hậu mùa đông lạnh điển hình nhất ở nước ta.
•
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú.
Lịch
sử phát triển lâu dài và có nhiều nét đặc sắc của lãnh thổ kết hợp với vị trí
địa lý và mối quan hệ với các lãnh thổ lân cận đã khiến cho miền Bắc và Đông
Bắc Bắc Bộ có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, nhiều loại có
giá trị nhất ở nước ta.
Nhiều
mỏ khoáng sản lớn tập trung ở miền này như than ở Quảng Ninh có tổng trữ lượng
ước tính 6,5 tỉ tấn (đã thăm dò được 3,5 tỉ tấn), Thái Nguyên và Bắc Giang (có
trữ lượng khoảng 70 triệu tấn); sắt ở Thái Nguyên, Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái
với tổng trữ lượng dự báo khoảng 2 tỉ tấn (đã thăm dò 300 triệu tấn); chì và
kẽm ở Bắc Cạn (chiếm 80% trữ lượng của cả nước); thiếc ở Cao Bằng, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, bô xít ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, mangan ở Cao Bẳng; ti tan ở
Thái Nguyên; Quảng Ninh; vàng ở Hà Giang, Bắc Cạn; bạc ở Lạng Sơn., Quảng Ninh;
vonfram ở Cao Bằng , Tuyên Quang; phôtphorit ở Lạng Sơn, Hà Giang; sét xi măng
ở Quảng Ninh, Hải Dương,. Thái Nguyên, Lạng Sơn; kaolin ở Quảng Ninh; khí đốt ở
vùng trũng Hà Nội và bể Sông Hồng; nước khoáng ở Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Ninh Bình.
Tài
Nguyên sinh học của miền cũng rất phong phú và đặc sắc với khu hệ thực vật Việt
Bắc - Hoa Nam, có tới 50% thành phần là yếu tố bản địa đặc hữu với các hệ sinh
thái tiêu biểu ở vùng núi, vùng cửa sông và vùng biển còn được lưu giữ, bảo tồn
tại các vườn quốc gia Ba Bể, Tam Đảo, Ba Vì, Cát Bà, Bái Tử Long.
Tài
nguyên đất cũng rất phong phú với nhiều
loại đất khác nhau mà tiêu biểu là đất phù sa màu mỡ của đồng bằng châu thổ
sông Hồng.
Các
đặc điểm chung của địa lí tự nhiên miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ được biểu hiện
rất rõ nét thông qua các thành phần tự nhiên cũng như tại các khu vực khác nhau
trong miền.
2.5.
Đặc điểm chung của miền
địa lý tự nhiên Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
Miền
Tây Bắc và Bắc trung Bộ là miền có hoạt động địa máng mạnh ở Việt Nam và được
nâng mạnh trong vận động tân kiến tạo.
Nằm
trong xứ địa máng Đông Dương, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là miền uốn nếp Tây Việt
Nam, đầu mút Đông Nam của dải uốn nếp Têtit và vì vậy, nét đặc trưng cơ bản của
miền về mặt kiến tạo là miền có hoạt động địa máng mạnh nhất ở Việt Nam. Các cấu trúc cổ dạng dải của các phức nếp
lồi, lõm xen kẽ chạy song song theo hướng Tây Bắc - Đông Nam thuộc địa máng Tây
Bắc và Bắc Trường Sơn, được bảo tồn và nâng lên mạnh mẽ trong tân kiến tạo. Kết
quả của vận động này là đã tạo nên các dãy núi cao đồ sộ ở khu vực Tây Bắc và
được tiếp nối bởi các dãy núi cùng hướng ở Bắc Trường Sơn để làm thành một mạch
núi thống nhất Tây Bắc - Đông Nam, hướng cấu trúc chủ yếu của địa hình Việt Nam
nổi bật trên bản đồ Đông Nam Á.
Các
mạch núi theo hướng nghiêng chung thấp dần về phía biển Đông, đồng thời thung
lũng sông mở rộng dần làm thành các đồng bằng. Càng về phía Nam, các đồng bằng
ven biển càng thu hẹp dần cùng với địa hình đảo nghiêng ăn ra sát biển của dãy
núi Bắc Trường Sơn.
•
Địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có cấu trúc hướng Tây Bắc - Đông Nam và
có tính chất cổ trẻ lại.
Nét
đặc trưng về cấu trúc địa hình không chỉ thể hiện ở hướng tây bắc - đông nam mà
còn ở tính chất cổ trẻ lại của núi non, sông ngòi trong miền được biểu hiện rõ
rệt hơn so với mọi nơi khác trên lãnh thổ đất nước. Tính chất cổ trẻ lại của
địa hình thể hiện ở sự tương phản giữa địa hình núi và các cao nguyên cao với
các thung lũng sâu, dốc, nước chảy xiết, lòng sông hẹp, lắm thác ghềnh. Bề mặt
địa hình bị chia cắt mạnh, quá trình bào mòn, xâm thực diễn ra mạnh mẽ cũng là
đặc điểm địa mạo nổi bật của miền.
•
Ảnh hưởng gió mùa cực đới tới miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ đã giảm sút và biến
tính mạnh.
Đặc
trưng cơ bản của miền về mặt khí hậu là sự giảm sút ảnh hưởng của gió mùa cực
đới biến tính về phía Tây và về phía Nam. Dãy núi Hoàng Liên Sơn đồ sộ chạy dọc
phần Đông của miền ngăn cản sự xâm nhập trực tiếp của gió mùa Đông Bắc vào khu vực Tây Bắc, làm
cho mùa đông ở Tây Bắc hanh khô hơn vì hầu như không có mưa phùn. Và nếu so
trên cùng vĩ độ và độ cao thì tại khu vực Tây Bắc có nhiệt độ trung bình năm
cao hơn khu vực Đông Bắc từ 2 - 30C. Sự suy yếu và biến tính dần của
gió mùa cực đới khi di chuyển xuống phía Nam cùng với sự tăng lượng bức xạ Mặt
Trời đã làm tăng dần nhiệt độ trung bình năm, giảm dần biên độ năm và rút ngắn
tháng có mùa đông lạnh. Từ đèo Ngang, 180B trở vào không còn tháng
lạnh dưới 180C, và vượt qua đèo Hải Vân không còn thời tiết lạnh
dưới 100C. Các dãy núi sắp xếp song song và thấp dần theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam lại tạo điều kiện cho gió mùa Đông Nam mang khối khí ẩm từ biển
Đông theo các thung lũng lùa sâu vào nội địa làm giảm độ lục địa cho phần rìa
cực Tây của miền. Mặt khác, các dãy núi này lại gây hiệu ứng "phơn"
đối với gió mùa Tây Nam, tạo nên hoạt động của gió Tây khô nóng (còn gọi là gió
Lào) ở đồng bằng ven biển và ở phần Nam của khu vực Tây Bắc. Ngoài ra, quan hệ
giữa cấu trúc sơn văn và hoàn lưu gió mùa đã tạo nên những sắc thái riêng về sự
phân hóa mưa trong miền với mùa mưa đến sớm
và rút ngắn ở khu vực Tây Bắc, mưa muộn và kéo dài ở ven biển Trung Bộ.
•
Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có sự hội tụ của nhiều luồng di cư sinh vật, đặc
biệt là luồng di cư Himalaya - Vân Quý
(Vân Nam - Quý Châu).
Mối
liên hệ mật thiết về cấu trúc địa chất, địa hình của miền với Tây Vân Nam và
các lãnh thổ phía Tây đã tạo điều kiện cho sự xâm nhập của các luồng di cư sinh
vật Himalaya - Vân Quý từ Tây Bắc xuống và luồng Ấn Độ - Mianma từ phía Tây Nam
lại. Sự tăng dần tính chất nhiệt đới về phía Nam tạo điều kiện cho sự đi lên
của luồng di cư sinh vật phương Nam Malaixia - Inđônêxia. Thành phần thực vật
phương Nam chiếm ưu thế trong thành phần rừng tại khu vực Bắc Trường Sơn với
ranh giới phía Bắc tới sông Chu (200B) và còn có thể vượt lên vĩ độ
cao hơn tới phần Nam của khu vực Tây Bắc.
Các
đặc điểm chung đó của miền thể hiện mối liên hệ quy định lẫn nhau giữa các
thành phần tự nhiên.
Bên
cạnh sự thống nhất trên những nét lớn chung nhất về cấu trúc địa hình, địa
chất, về thủy văn, khí hậu và thành phần sinh vật, miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
còn có sự phân hóa tự nhiên rất đa dạng, tuy nhiên vẫn phản ánh mối quan hệ
tương phản và phù hợp về mặt phát sinh giữa các cảnh quan vùng núi, vùng đồng
bằng và vùng ven biển. Do vậy, trong việc khai thác, sử dụng các nguồn tài
nguyên, các vùng trong miền cần đặc biệt chú ý mối quan hệ thống nhất này.
2.6.
Đặc điểm chung của miền
địa lý tự nhiên Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ
•
Là miền có nền nhiệt độ cao quanh năm, không còn thời tiết lạnh dưới 100C
gây hại cho sinh vật nhiệt đới. Theo tổng nhiệt độ năm, từ Đà Nẵng đã trên 90000C,
vượt tiêu chuẩn khí hậu á xích đạo. Biên độ nhiệt năm, so với hai miền phía Bắc
đã thu hẹp lại, chỉ còn dưới 90C và càng vào Nam càng rút ngắn hơn.
Từ phía Nam Nha Trang (100B) tính chất điều hoà thể hiện rõ, biên độ
nhiệt năm là 50C và ở Cà Mau chỉ còn dưới 30C. Mặt khác,
mùa khô trong miền lại gay gắt và kéo dài. Từ Bình Định (khoảng 140B)
trở xuống, lượng mưa không điều hoà trong năm là một trở ngại cho sự phát triển
của thực bì xích đạo ưa ẩm. Trong chế độ mưa xuất hiện hai cực đại và hai cực
tiểu phù hợp với hai lần Mặt Trời qua thiên đỉnh.
•
Về phương diện lịch sử phát triển, đây là phạm vi của địa khối Kon Tum, bộ phận
khiên của địa khối Inđôxini rộng lớn trong lòng địa máng Đông Dương, hoạt động
khác với khu vực địa máng Việt - Lào trong miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Hoạt
động địa máng rìa phía Nam khiên Kon Tum kết thúc sớm vào cacbon sớm, trong vận
động Hecxini. Trong miền rất nhiều nham biến chất, nham granit xâm nhập và nham
phun trào riolit, đaxit; còn đá vôi thì tương đối hiếm.
Đặc
điểm của hoạt động tân kiến tạo cũng khác. Vào đầu kỉ Đệ Tứ, địa khối cổ Kon
Tum được nâng lên mạnh và xuất hiện nhiều đứt gãy, nhiều đợt phun trào mac ma
mạnh mẽ. Khu vực Bắc Kon Tum và Lâm Đồng được nâng lên khá cao, tạo nên địa
hình có nhiều đỉnh cao trên 2000m như Ngọc Linh 2598m, Chư Yang Sin 2405m, Lang
Biang 2163m.
Tân
kiến tạo còn phát sinh nhiều đứt gãy hướng Tây Bắc - Đông Nam, làm sụt võng
phần Tây Nam của nền cổ, tạo điều kiện hình thành châu thổ sông Cửu Long, đồng
thời lại phun trào bazan trên một diện tích rộng, tạo nên một dải cao nguyên
nối tiếp nhau từ Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lăk, Đắk Nông tới Lâm Đồng.
•
Địa hình miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có nhiều nét khác biệt với hai miền phía
Bắc. Địa hình miền núi nổi bật là các sơn nguyên bóc mòn và cao nguyên bazan,
còn các núi chủ yếu có dạng vòm khối tảng, rất ít địa hình cacxtơ.
Địa
hình đồng bằng rất rộng lớn, chỉ tính riêng châu thổ sông Cửu Long đã là 4
triệu ha, gấp 2,5 lần đồng bằng sông Hồng. Ngược lại, dải đồng bằng ven biển từ
Đà Nẵng - Quảng Nam trở vào lại nhỏ, hẹp và bị chia cắt bởi các đồi núi, vũng
vịnh, đầm phá.
•
Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có tài nguyên thiên nhiên phong phú,đa dang. Các
tài nguyên nổi bật là dầu mỏ,khí đốt ở thềm lục địa,quặng bôxit laterit ở Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ, các thuỷ sản, hải sản dọc bờ biển và trên các sông suối
kênh rạch.
Được
thiên nhiên ưu đãi và đầu tư đung hướng miền Nam Trung bộ và Nam Bộ sẽ trở
thành một miền kinh tế năng động có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất nước
ta.
•
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản miền cũng gặp phải những khó khăn rất lớn .
Đất mặn, đất phèn, đất than bùn chiếm
diện tích lớn ở đồng bằng,đất cát nghèo bị hoang mạc hoá ven biển Nam Trung
Bộ ngày càng mở rộng. Bão, lũ lụt, hạn
hán, sạt lở bờ biển, cháy rừng luôn luôn rình rập và gây hậu quả nghiêm trọng.
Đó là những vấn đề khó khăn, trở ngại không nhỏ mà mỗi địa phương cần phải
triển khai các giải pháp ứng phó thích hợp, có hiệu quả để khắc phục.
Cần
lưu ý là 3 miền địa lý tự nhiên ở nước ta có sự phân hóa thành các khu địa lý
tự nhiên tương đối phù hợp với các vùng kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
-
2 miền địa lý tự nhiên: Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, miền Tây Bắc
và Bắc Trung Bộ nằm trọn trong 3 vùng kinh tế -xã hội: Trung du và miền núi Bắc
Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ.
Tuy vậy vùng Trung du và
miền núi Bắc Bộ lại nằm ở 3 khu tự nhiên: Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc của 2
miền địa lý tự nhiên: Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, miền Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ.
Vùng Bắc Trung Bộ nằm ở
tới 4 khu tự nhiên: Tây Bắc, Bắc Trường Sơn, đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đồng
bằng Bình Trị Thiên của miền tự nhiên Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.
-
Miền địa tự tự nhiên Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ nằm trọn trong 4
vùng kinh tế - xã hội: Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng
bằng sông Cửu Long.
Vì thế, các đặc điểm
chung của 3 miền địa lý tự nhiên cần được xem xét cụ thể để đánh giá cho các
mục đích sử dụng tại mỗi vùng kinh tế - xã hội hoặc đánh giá, so sánh giữa các
miền địa lý tự nhiên với nhau đối với mỗi thành phần tự nhiên cũng như đặc điểm
chung của miền.
III.
SỰ PHÂN HÓA KHÍ HẬU VIỆT NAM VÀ ĐÁNH GIÁ
TIỀM NĂNG KHÍ HẬU TẠI CÁC VÙNG LÃNH THỔ VIỆT NAM
3.1.
Bản đồ khí hậu Việt nam
- Nhiệt độ và lượng mưa
là hai yếu tố khí hậu quan trọng nhất, thể hiện đặc điểm khí hậu của mỗi nước,
mỗi khu vực. Bản đồ các yếu tố khí hậu và bản đồ khí hậu chung thể hiện một
cách rõ nét và trực quan về đặc điểm và sự phân hóa không gian của các yếu tố
khí hậu nói riêng và kết quả phân vùng khí hậu nói chung.
- Bản đồ nhiệt độ phản
ánh được những đặc điểm chung của chế độ nhiệt Việt Nam với nền nhiệt độ cao
tiêu biểu của vùng nhiệt đới, có sự phân hóa giữa các vùng và các mùa.
- Nhiệt độ trung bình năm
của tuyệt đại bộ phận lãnh thổ Việt Nam đều cao, đạt tiêu chuẩn khí hậu nhiệt
đới với nhiệt độ đều trên 200C (trừ vùng núi). Phần lãnh thổ miền
Bắc (tới vĩ độ 160B) có nhiệt độ trung bình năm trên 200C.
Phần lớn lãnh thổ miền Nam có nhiệt độ trung bình năm trên 240C.
Điều này phản ánh rõ rệt quy luật phân hoá địa đới: nhiệt độ tăng dần từ Bắc
vào Nam. Các vùng núi cao đều có nhiệt độ trung bình năm thấp hơn so với khu
vực lân cận, phản ánh quy luật phân hoá phi địa đới: nhiệt độ giảm dần theo độ
cao.
- Nhiệt độ trung bình
tháng 1 (đặc trưng cho mùa đông) có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa miền Bắc
(trung bình dưới 180C và địa phương miền núi xuống dưới 140C)
và miền Nam trong đó Nam Bộ có nhiệt độ trung bình cao nhất (trên 240C).
- Nhiệt độ trung bình
tháng 7 (đặc trưng cho mùa hạ), toàn quốc có nền nhiệt độ cao, nơi có nhiệt độ
cao nhất là đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải Bắc Trung Bộ. Các vùng núi cao có khí
hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình dưới 200C.
- Bản đồ lượng mưa phản
ánh được đặc điểm của chế độ mưa của nước ta, đồng thời cũng phản ánh sự phân
hoá mưa trên toàn lãnh thổ theo thời gian và không gian.
- Lượng mưa trung bình
năm trên toàn lãnh thổ tương đối cao từ 1.600 - 2.000mm. Có sự chênh lệch rất
lớn tới hơn 2.000mm giữa nơi có lượng mưa trung bình thấp nhất (dưới 800mm) và
lượng mưa trung bình cao nhất (trên 2.800mm).
- Tổng lượng mưa từ tháng
11 đến tháng 4 (tương ứng với mùa khô), tổng lượng mưa thấp (dưới 400mm) ở Bắc
Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, lượng mưa cao nhất ở duyên hải và vùng núi miền
Trung.
- Tổng lượng mưa từ tháng
5 đến tháng 10 (tương ứng với mùa mưa), có lượng mưa lớn và phân bố khá đồng
đều trên phạm vi cả nước. Các nơi có địa hình núi cao, chắn gió đều có lượng
mưa lớn trên dưới 2.000mm.
3.2.
Phân vùng khí hậu Việt
Nam (phần đất liền)
Dựa theo kết quả công
trình Atlat Khí tượng Thuỷ văn Việt Nam do Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn Việt Nam
xuất bản Việt Nam xuất bản năm 1994.
- Các tiêu chí để phân
chia cấp miền khí hậu là lượng bức xạ tổng cộng trung bình năm, biên độ nhiệt
độ trung bình và số giờ nắng trung bình năm. Ba tiêu chí này dựa trên cơ sở
nguồn năng lượng bức xạ Mặt Trời tương đối ổn định trong một thời gian dài, là
nhân tố hình thành khí hậu quan trọng nhất có tính chất quyết định tới đặc điểm
khí hậu của mỗi nơi. Theo đó, khí hậu được chia thành hai miền: miền khí hậu
phía Bắc (khí hậu miền Bắc) và miền khí hậu phía Nam (khí hậu miền Nam). Ranh
giới hai miền khí hậu là khu vực đường chia nước của dãy Bạch Mã (ở khoảng vĩ
độ 160B).
Trong mỗi miền khí hậu
lại chia thành các vùng khí hậu, dựa vào thời kì mùa mưa (các tháng liên tục có
lượng mưa trên 100mm) và ba tháng có lượng mưa cao nhất. Miền khí hậu phía Bắc
còn dựa vào mức độ lạnh giảm dần về phía Tây và thời kì bắt đầu mùa mưa chậm
dần về phía Nam để chia thành 4 vùng khí hậu. Miền khí hậu phía Nam chia thành
3 vùng khí hậu. Ranh giới các vùng khí hậu chủ yếu dựa trên số liệu của các
trạm đo mưa.
Sơ đồ phân chia vùng khí hậu Việt Nam
Một số đặc trưng chỉ thị của các miền và các vùng khí hậu
|
|||||||
Miền khí hậu
|
Bắc (B)
|
Nam (N)
|
|||||
Biên độ năm của nhiệt
độ không khí (0C)
|
³ 9
|
< 9
|
|||||
Bức xạ tổng cộng trung
bình năm (Kcal/cm2/năm)
|
£ 140
|
> 140
|
|||||
Số giờ nắng trung bình
năm (giờ)
|
£ 2000
|
> 2000
|
|||||
Vùng khí hậu
|
BI
|
B2
|
BIII
|
BIV
|
NI
|
NII
|
NIII
|
Mùa mưa (các tháng)
|
4 - 9
|
4 - 10
|
5 - 10
|
8 - 12
|
8 - 12
|
5 - 10
|
5 - 10
|
Ba tháng mưa lớn nhất
|
6 - 8
|
6 - 8
|
7 - 9
|
8 - 10
|
9 - 11
|
7 - 9
|
8 - 9
|
- Các biểu đồ nhiệt độ có
lượng mưa, biểu đồ có chế độ gió (hướng và tần suất gió) tại các trạm tiêu biểu
cho mỗi vùng khí hậu cũng như sơ đồ hoàn lưu gió mùa (mùa hạ và mùa đông) và
gió Tây giúp minh hoạ cụ thể đặc điểm của 2 miền khí hậu và 7 vùng khí hậu.
- Sơ đồ bão gồm hướng di
chuyển và tần suất của bão các tháng trong năm trên vùng biển nước ta thấy khu
vực miền Trung từ Thanh Hoá đến Quảng Nam là khu vực có nhiều bão nhất và tập
trung chủ yếu vào các tháng 8, 9, 10.
- Bão thường xuất hiện
sớm ở khu vực vịnh Bắc Bộ và kết thúc muộn ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
- Cần chú ý ba nhân tố
hình thành khí hậu là bức xạ Mặt Trời, hoàn lưu khí quyển và đặc điểm của bề
mặt đệm có liên quan mật thiết và đồng thời. Vì vậy, khi phân tích đặc điểm khí
hậu ở mỗi nơi cần kết hợp với việc sử dụng các trang bản đồ Khí hậu với trang
bản đồ Hình thể, trang bản đồ Các miền tự nhiên, trang bản đồ Thực vật và động
vật.
- Vì vậy, khi đọc trang
bản đồ Khí hậu cần chú ý khai thác về kiến thức, nội dung và kĩ năng như:
+ Nêu lên đặc điểm chung
của khí hậu Việt Nam.
+ Phân tích các nhân tố
ảnh hưởng tới khí hậu Việt Nam (kết hợp đọc các trang bản đồ về hình thể, tự
nhiên để nêu lên vị trí địa lí, hoạt động gió mùa và nhân tố địa hình).
+ Vai trò và hoạt động
của gió mùa tới khí hậu Việt Nam.
+ Phân tích các biểu đồ
khí hậu để rút ra những nhận xét về đặc điểm khí hậu của 2 miền và 7 vùng khí
hậu.
+ Phân tích sự phân bố
nhiệt, sự phân hoá chế độ nhiệt theo thời gian và không gian và giải thích sự
phân hoá đó.
+ Phân tích sự phân bố
mưa, nhận xét về sự phân hoá của sự phân bố mưa theo thời gian, không gian và
giải thích.
+ Xác định rõ 2 miền khí
hậu: miền khí hậu phía Bắc (B) và miền khí hậu phía Nam (N) với ranh giới khí
hậu ở dãy núi Bạch Mã.
+ Xác định rõ 7 vùng khí
hậu: Vùng khí hậu Tây Bắc Bộ, vùng khí hậu Đông Bắc Bộ, vùng khí hậu Trung và
Nam Bắc Bộ, vùng khí hậu Bắc Trung Bộ (thuộc miền khí hậu phía Bắc), vùng khí
hậu Nam trung Bộ, vùng khí hậu Tây Nguyên, vùng khí hậu Nam Bộ (thuộc miền khí
hậu phía Nam) và ranh giới của các vùng khí hậu (xem trang Khí hậu – Atlat Địa
lý Việt Nam).
3.3.
Đặc điểm khí hậu tại các
vùng lãnh thổ Việt Nam
Báo
cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2006 do TSKH Nguyễn Duy
Chinh (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường) chủ trì, đã đánh giá khá
cụ thể tiềm năng khí hậu ở 7 vùng lãnh thổ nước ta (vùng Trung du và miền núi
Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,
vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long) và cung cấp
thông tin chung cho các ngành kinh tế - xã hội.
3.3.1. Vùng trung du và miền núi
Bắc Bộ
a. Khu vực Tây Bắc Bắc Bộ
-
Khí hậu khu vực Tây Bắc ít chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới, cho nên mùa đông
ở đây thời gian lạnh ngắn và ổn định hơn so với các vùng phía đông Hoàng Liên
Sơn.
-
Điều kiện tự nhiên khu vực Tây Bắc (chế độ nhiệt - ẩm, đất đai...) thuận lợi
cho việc mở rộng các đồng cỏ và phát triển chăn nuôi quy mô lớn, nhất là trâu,
dê, bò sữa và cũng thích hợp cho việc trồng một số cây ăn quả và cây công
nghiệp;
-
Điều kiện địa hình, sông ngòi và mưa khá lớn ở thượng nguồn (Sìn Hồ, Lai
Châu,...) cho phép nghĩ tới nguồn thủy năng phong phú phục vụ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước. Đập thủy điện Sơn La lớn nhất Việt Nam đã minh chứng
đúng điều đó;
-
Với vị trí thứ 3 trong cả nước về tiềm năng bức xạ mặt trời - khu vực Tây Bắc
cũng có thể nghiên cứu, đánh giá để khai thác nguồn năng lực bức xạ mặt trời
phong phú này phục vụ các nhu cầu dân sinh. Một vài nước trong khối EU đang có kế hoạch đầu tư vào Tây Bắc để giúp
địa phương khai thác loại năng lượng mới này.
Bên
cạnh những thuận lợi đó, khu vực Tây Bắc còn có một số khó khăn đáng kể như:
-
Nạn xói mòn diễn ra khá trầm trọng do việc khai hoang sử dụng đất, khai thác
rừng... thiếu quy hoạch;
-
Nạn lũ quét, sạt lở đất hầu như năm nào cũng gây ra thiệt hại nặng nề về người
và của.
b. Khu vực Đông Bắc Bắc Bộ
-
Trước hết phải kể đến điều kiện mùa đông lạnh và một số nơi trong vùng thường xuyên
ẩm ướt cho phép phát triển được nhiều loại cây trồng á nhiệt đới, trong đó phải
kể đến nhiều loại rau, màu và nhiều cây ăn quả có nguồn gốc từ vĩ độ cao như
hồng, mận, cam, quýt,... cũng như nhiều giống cây thuốc như tam thất, xuyên
khung, hà thủ ô... Việc nhân giống một số cây nhập ngoại cũng có khả năng thực
hiện ở vùng này (chẳng hạn ở Sa Pa, Bắc Hà...).
-
Mùa hè ở đây tương đối mát, mưa khá nhiều,... Đó là điều kiện phát triển chăn
nuôi, cũng như xây dựng nhiều khu nghỉ mát, an dưỡng (chẳng hạn khu điều dưỡng
và du lịch Hồ Ba Bể) trên cơ sở giải quyết tốt vấn đề giao thông đi lại. Với
những thuận lợi cơ bản về mặt khí hậu
như đã nêu, có thể trong tương lai không xa sẽ thu hút một bộ phận dân cư từ
các vùng có mật độ dân số cao đến đây để phát triển kinh tế. Điều đó phụ thuộc
nhiều vào chủ trương phát triển kinh tế - xã hội vùng núi của Đảng và Nhà nước
ta.
Tuy
nhiên cũng cần nhận thức đúng mức một số khó khăn về mặt khí hậu ở vùng núi
Đông Bắc này:
-
Trở ngại lớn nhất ở vùng này là mức độ rét trong mùa đông ở các thung lũng, nơi
có thuận lợi về nguồn nước, tiện cho sinh hoạt và sản xuất. Vấn đề đặt ra ở đây
là phải quy hoạch khu vực sản xuất và khu dân cư như thế nào cho phù hợp với
điều kiện khí hậu;
-
Một khó khăn lớn khác ở vùng Tây Bắc là nạn lũ quét, ngập lụt, sạt lở, xói mòn
đất,... Vì vậy, việc bảo vệ rừng và trồng rừng, việc khoanh vùng lũ quét và sạt
lở đất để tìm giải pháp hạn chế thiệt hại do nó gây ra ở vùng này có ý nghĩa
rất quan trọng;
-
Ngoài ra ở vùng phía đông dãy Hoàng Liên Sơn nói chung và ở khu vực Đông Bắc
nói riêng, độ ẩm không khí khá cao gây ra han rỉ, chập các vi mạch, hỏng hóc
các thiết bị điện tử,... Chính vì thế bài toán nhiệt đới hóa các máy móc, thiết
bị phải được đầu tư nghiên cứu và cải tiến.
Bên
cạnh đó, ở đây về mùa đông còn xuất hiện sương muối, làm thiệt hại đáng kể cho
các loại cây nhiệt đới kém chịu rét.
3.3.2. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ
Điều
kiện mùa đông lạnh và ẩm ướt, mùa hè nóng và nhiều mưa của vùng Đồng bằng Bắc
Bộ là những điều kiện thuận lợi đối với đời sống và sản xuất. Khí hậu vùng Đồng
bằng Bắc Bộ diễn biến khá điều hòa và sự tương phản mùa đông lạnh, ít mưa và
mùa hè nóng, ẩm thích hợp cho việc thâm canh và đa canh mức độ cao. Trên thực
tế có nhiều loại cây trồng có đặc điểm sinh thái rất khác nhau đã phát triển tốt
trên vùng ruộng đất màu mỡ của vùng này. Phần nhiều các cây lương thực, các
loại rau màu, các cây công nghiệp và cây ăn quả đều đạt năng suất và chất lượng
cao. Ngoài ra khả năng tăng vụ, tăng năng suất của các loại cây trồng, khả năng
phát triển chăn nuôi và đánh bắt hải sản ở vùng này cũng rất cao. Tuy thế, bên
cạnh những thuận lợi về mặt khí hậu sinh thái như vừa nêu, khí hậu ở đây cũng
có những khó khăn đáng kể cần phải được quan tâm khắc phục.
-
Nạn lũ lụt do mưa lớn và tập trung ở vùng Tây Bắc và Đông Bắc là thiên tai lớn
nhất hàng năm đe dọa đồng ruộng và đời sống nhân dân vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Mực
nước sông có năm lên rất cao đe dọa sự tràn bờ và vỡ đê. Nhà máy thủy điện Hòa
Bình có khả năng điều tiết nước, thế nhưng do lượng mưa ở vùng đồng bằng (nội
đồng) cũng khá lớn, cho nên sự đe dọa hàng năm của lũ lụt là rất nghiêm trọng;
-
Bên cạnh nạn lũ lụt vùng Đồng bằng Bắc Bộ, nhất là vùng ven biển Bắc Bộ, hàng
năm phải hứng chịu ảnh hưởng lớn của bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ). Hệ quả
mưa to, gió lớn của bão và ATNĐ đưa lại những biến động lớn trong chế độ mưa,
gây ra sự ngập úng là thiệt hại lớn trong vụ mùa. Bài toán thủy loại nội đồng
đã và đang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo Phòng chống
lụt bão Trung ương và các ngành liên quan đặc biệt quan tâm, cũng như bài toán
nghiên cứu dự báo mưa lớn diện rộng nhằm tìm giải pháp phòng tránh các thiệt
hại do lũ, lũ quét và ngập lụt gây ra đang được tiếp tục nghiên cứu;
-
Ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng chịu ảnh hưởng của thời tiết gió Tây khô nóng. Sự khô
hạn trong mùa khô và sự gián đoạn mưa thời kỳ đầu mùa hè thường dẫn đến sự khô
hạn (thiếu nước) đáng kể, gây khó khăn lớn cho sản xuất nông nghiệp. Vấn đề
nghiên cứu làm tăng lượng mưa ("làm mưa nhân tạo") chính vì thế cũng
đang được Nhà nước rất quan tâm;
-
Như đã đề cập ở trên, vùng Đồng bằng và trung du Bắc Bộ có thời tiết mưa phùn
và nồm ẩm rất đặc trưng và đều khắp, nhất là vào các tháng 2, 3 thời tiết gió
nồm và mưa phùn này ngoài việc làm tăng đáng kể độ ẩm không khí, tạo điều kiện
thuận lợi cho nấm mốc phát triển và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng còn gây
han rỉ, chậm mạch các thiết bị điện tử, làm hư hỏng các máy móc hiện đại. Vấn
đề bảo quản vật tư, thiết bị, máy móc... Ở vùng này rất đáng được quan tâm, và việc chế tạo máy
móc thiết bị cần đi đôi với việc nhiệt đới hóa.
3.3.3. Vùng Bắc Trung Bộ
-
Có thể nói vùng Bắc Trung Bộ là vùng có điều kiện khí hậu tương đối khắc
nghiệt: mùa đông khá lạnh và ẩm ướt; mùa hạ nhiều nắng nóng bức và khô hạn vào
đầu và giữa mùa, còn mưa lớn tập trung vào cuối mùa. Tuy vậy, so với các vùng
phía Bắc mùa đông ở đây đã ít rét hơn. . Điều kiện đó có thể giúp cho việc phát
triển một số cây cây trồng nhiệt đới như cà phê, hồ tiêu, dừa,...
-
Mùa hạ nhiều nắng, ít mưa cho phép phát triển nghề ven biển và nghề chế biến hải sản.
Bên
cạnh thuận lợi ít ỏi đó, vùng Bắc Trung Bộ có một số khó khăn cần phải được
khắc phục:
-
Mùa đông ở đây về cơ bản đã ít rét hơn, nhất là ở khu vực phía Nam của vùng,
song trong những trường hợp gió mùa Đông Bắc mạnh tràn về có thể xảy ra sương
muối;
-
Mùa hè ở đây có hiện tượng gió Tây khô nóng khắc nghiệt và thường là nguyên
nhân gây ra khô hạn ảnh hưởng nghiêm trọng đến trồng trọt, chăn nuôi. Vấn đề
thủy lợi hóa kết hợp khai thác thủy năng ở vùng này phải được hết sức quan tâm
để khắc phục thiệt hại do hạn hàng năm gây ra;
-
Bên cạnh sự nóng bức, khô hạn do gió Tây mang lại, ở đây còn có nạn mưa to, gió
lớn, lũ lụt, nước biển dâng do hiệu ứng bão... ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến
xản suất và đời sống của nhân dân địa phương. Nghiên cứu phòng tránh và phòng
chống thiên tai, bão lũ ở Miền Trung luôn là vấn đề bức thiết.
3.3.4. Vùng Duyên hải Nam
TrungBộ
-
Khí hậu vùng Nam Trung Bộ về cơ bản không còn rét, mùa mưa đến chậm và rất tập
trung trong 3 tháng 9, 10, và 11. Mưa nhiều ở khu vực phía Bắc và rất ít mưa ở
khu vực phía Nam. Sự tương phản giữa 2 mùa trong chế độ mưa - ẩm khá sâu sắc:
thời kỳ đầu và giữa mùa hạ thời tiết khô nóng gay gắt, còn thời kỳ cuối hạ đến
giữa đông lại mưa lớn, lũ lụt nghiêm trọng, do chịu ảnh hưởng cũa bão và hội tụ
nhiệt đới. Tuy vậy, nhìn chung khí hậu vùng Nam Trung Bộ có nhiều thuận lợi hơn
Bắc Trung Bộ. Thuận lợi cơ bản nhất về mặt sinh thái là nền nhiệt độ tương đối
cao, nắng nhiều,.. cho phép trồng cây quang năm những cây lương thực thích hợp
với các đặc điểm tự nhiên khác. Mặt khác vấn đề cơ cấu cây trồng ở đây cũng khá
ổn định.
-
Ngoại trừ khu vực phía Tây Quảng Nam - Đà Nẵng, lượng mưa trung bình năm ở
Trung Bộ không lớn, đại bộ phận đạt từ 1700 - 2300mm, ở phần phía Nam chỉ đạt
800 - 1400mm/năm. Với lượng mưa như vậy thì công tác thủy lợi và điều tiết nước
hợp lý mới có thể đáp ứng được yêu cầu về nước cho cây trồng trong cả năm. Tình
hình khô hạn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sản xuất nông nghiệp ở đại bộ
phận vùng này, nhưng điều kiện nắng nhiều-mưa ít ở vùng cực Nam Trung Bộ lại
tạo điều kiện tốt cho vệc phát triển nghề làm muối và chế biến hải sản.
-
Do Trị số bức xạ tổng cộng ở khu vực này đạt rất cao. Điều đó cho thấy tiềm
năng bức xạ ở Nam Trung Bộ, rất phong phú và việc đầu tư khai thác nguồn năng
lượng mới này có khả năng thu được hiệu quả
kinh tế cao.
-
Mặc dầu tốc độ gió trung bình năm ở đây không lớn, nhưng vùng ven bờ Nam Trung
Bộ nhô ra biển nên có lợi thế rất thoáng gió (kể cả các gió hướng Bắc và Tây
Bắc). Nhiều công ty trong và ngoài nước đang đầu tư để khai thác, sử dụng nguồn
năng lượng gió (Chẳng hạn: Cộng hòa Liên bang Đức đang chuẩn bị đầu tư lắp đặt
các tháp và máy đo gió cao 80m ở Quy Nhơn để khai thác năng lượng gió).
Ngoài
ra, về mặt năng lượng gió cũng có thể
coi gió Tu Bông là một tiềm năng, có thể được khai thác để phục vụ trực
tiếp cho dân cư địa phương (ở vùng Tu Bông và bán đảo Hòn Gốm).
-
Như đã đề cập ở trên, thời tiết khô nóng là một trở ngại cho sản xuất và đời
sống, mặc dầu mức độ có phần đỡ khắc nghiệt hơn vùng Bắc Trung Bộ. Thời kỳ ít
mưa trong tháng 3, tháng 4 và tiếp theo thòi kỳ gió "phơn" khô nóng
gây nhiều khó khăn cho sự phát triển của các giống cây ưa nước, nhất là lúa và
hoa màu ở giai đoạn phát dục, trổ bông.
-
Một khó khăn khác khá nghiêm trọng, đó là bão, lụt trong thời kỳ cuối hạ - đầu
đông. Ở vùng này địa hình dốc mạnh ra phía biển, sông suối ngắn lại không có hệ
thống đê điều, cho nên tác hại do mưa bão, nước dâng, lũ lụt gây ra hàng năm
khá lớn.
3.3.5. Vùng Tây Nguyên
-
Khí hậu Tây Nguyên có thuận lợi nổi bật nhất là chế độ nhiệt khá ôn hòa: mùa hạ
dịu mát, mùa đông không quá lạnh như ở các vùng núi ở Bắc Bộ; biên độ năm của
nhiệt độ tương đối nhỏ,... cho phép ổn định cơ cấu cây trồng quanh năm, nhất là
các cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày.
-
Mùa mưa chiến tỷ lệ trên 90% lượng mưa năm, nhưng lại phân phối đều trong tháng
6,7 tháng và cường độ mưa không lớn như
ở Bắc Trung Bộ. Mặc dù vậy, chế độ mưa, ẩm ở đây không thật thuận lợi cho cây
trồng, vì vùng Tây Nguyên có một mùa khô gay gắt kéo dài 5 tháng và với địa hình
thoải dần về phía Tây, khó giữ nước, nên thường hay xảy ra hạn hán, thậm chí có
nhiều trường hợp hạn hán rất nghiêm trọng ( ví dụ đợt hạn 1997 - 1998 do chịu
ảnh hưởng của hiện tượng EI Nino). Rõ ràng
vùng Tây Nguyên muốn khắc phục được tình hình khô hạn trong mùa khô thì
cần phải có giải pháp trữ nước và điều tiết nước hợp lý (xây kè, đập, trạm thủy
điện...). Việc Nhà nước đầu tư cho áp dụng công nghệ và xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật để làm tăng lượng mưa (làm mưa nhân tạo), hy vọng là một giải pháp
tích cực để chống hạn cho vùng này nói riêng và cho các vùng lãnh thổ khác nói
chung, vẫn biết sự đầu tư làm mưa nhân tạo là rất lớn và độ rủi ro là không
nhỏ.
3.3.6. Vùng Đông Nam Bộ
-
Thuận lợi cơ bản của vùng Đông Nam Bộ là có nền nhiệt độ khá cao (chỉ thấp hơn
một ít so với nền nhiệt độ vùng Đồng bằng sông Cửu Long), nắng nhiều, lượng mưa
phân bố khá đều trong các tháng, ít có những đợt mưa quá lớn... Điều kiện đó
cho phép quy hoạch và phát triển có kết quả các giống cây trồng nhiệt đới.
-
Bức xạ mặt trời ở vùng này với số giờ nắng lớn và quang mây, như đã đề cập, đặc
biệt ở vùng ven biển, chắc chắn có giá trị cao, có thể được đầu tư đo đạc,
nghiên cứu để phục vụ cho việc đánh giá khả năng khai thác nguồn năng lượng
này.
Bên
cạnh những thuận lợi đó, khí hậu vùng Đông Nam Bộ cũng bộc lộ một vài khó khăn:
-
Mùa khô kéo dài, lượng mưa ít ỏi, độ ẩm thấp và lượng bốc hơi cao (vượt rất xa
lượng mưa tháng). Tình hình đó đưa lại cho lại cho cây trồng sự hụt lượng nước
cần thiết cho sinh trưởng khá lớn, hạn chế đáng kể khả năng phát triển những
cây trồng không chịu hạn. Để khắc phục tình trạng thiếu nước trong mùa khô các
nhà quy hoạch sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, cần có giải pháp tích trữ
và điều tiết sử dụng nước tưới một cách hợp lý.
-
Như đã phân tích ở trên, số ngày dông (thường kèm theo lốc, tố) ở vùng này đạt
giá trị cao nhất trong cả nước (90 đến trên 100 ngày). Vấn đề chống sét được
quan tâm đúng mức, nhấy là ở vùng nhiều sét để bảo vệ những máy móc, thiết bị
hiện đại.
3.3.7. Vùng Đồng bằng sông Cửu
Long
-
Nhìn chung Đồng bằng sông Cửu Long có lượng mưa tương đối lớn, nền nhiệt độ cao
và ít biến động, nắng nhiều, ít thiên tai. Đó là những thuận lợi rất cơ bản đối
với sản xuất nông nghiệp, tạo khả năng
ổn định cơ cấu cây trồng, vật nuôi quanh năm.
-
Tiềm năng bức xạ (hay tiềm năng lượng
bức xạ) ở vùng này là khá lớn. Việc đánh giá đúng tiềm năng năng lượng bức xạ
phục vụ khai thác, sử dụng nguồn năng lượng này là rất cần thiết.
Tuy
vậy, chế độ khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh những điều kiện thuận lợi,
còn có những bất lợi cần quan tâm khắc phục:
-
Trong chế độ mưa - ẩm ở Đồng bằng sông Cửu Long có sự phân hóa mùa khá sâu sắc,
gây ra những khó khăn nhất định cho công tác quy hoạch và phát triển sản xuất,
ví dụ: thời kỳ mưa khô (tháng 12 đến tháng 4) gây khó khăn không nhỏ cho ngành
trồng trọt, nhất là độ chua mặn nhấn sâu vào nội địa, hạn chế khả năng trồng
cây và tăng vụ, ngược lại thời kỳ mùa mưa ở đây thường bị nước ở thượng nguông
sông Mê Kông đồn về gây ra nạn ngập úng trên phạm vi lớn. Đó là những khó khăn
lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội ở vùng này. Một trong các giải pháp khắc phục khó khăn hiện nay, là
"sống chung với lũ" đây là bài toán kinh tế - xã hội đang đặt ra cho
các ngành, các cấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
-
Bão và ATNĐ ở Đồng bằng sông Cửu Long
xảy ra (thường vào mùa thu) với xác suất rất nhỏ. Ảnh hưởng của bão đã xảy ra
và rất lớn (thiệt hại không nhỏ) đến người và của cải vật chất ở đây. Nguyên
nhân chính là do điều kiện kinh tế và dân trí của cư dân và do công tác phòng
chống thiệt hại do bão của các cấp chính quyền chưa được nhận thức đúng mức.
-
Các hiện tượng thời tiết bất lợi cho hệ sinh thái nói riêng và cho sự phát
triển kinh tế - xã hội nói chung ở Đồng bằng sông Cửu Long, như đã đề cập ở
trên, thường không hoặc ít xuất hiện. Tuy thế, hiện tượng dông sét ở vùng sâu
trong đất liền đi đôi với tố, lốc,... gây ra gió xoáy, gió giật với sức tàn phá
lớn ở vùng này cũng cần có giải pháp phòng chống phù hợp để đảm bảo sự sinh
sống của nhân dân địa phương. Kiên cố hóa nhà cửa, công trình,... đi đôi với
giải pháp "sống chung với lũ", có lẽ là cách làm hợp thực tế nhất
hiện nay và có thể còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội lâu dài ở vùng này.
IV.
MỘT
SỐ CÂU HỎI VÀ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
Câu 1: (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm
2007)
Dựa vào Atlat Địa lý Việt Nam và kiến thức
đã học hãy:
a. Phân tích những nhân tố chủ yếu gây ra
sự phân hóa của khí hậu Việt Nam.
b. Trình bày đặc điểm của sự phân hóa đó.
Hướng dẫn trả lời
a.
Các nhân tố gây sự phân hóa khí hậu Việt Nam.
-
Vị trí và hình dạng lãnh thổ: trong khu vực nội chí tuyến, vùng hoạt động của
gió mùa châu Á.
-
Sự hoạt động của hoàn lưu gió mùa: chủ yếu gây ra sự phân hóa theo mùa và phân
hóa không gian theo chiều Bắc Nam.
-
Ảnh hưởng của địa hình: gây ra sự phân hóa theo hướng sườn, theo độ cao, và
phân hóa địa phương.
b.
Đặc điểm của sự phân hóa khí hậu
-
Phân hóa theo không gian:
+
Phân hóa Bắc Nam (sự thay đổi đặc điểm chung của khí hậu hoặc của các yếu tố
khí hậu).
+
Phân hóa theo chiều Đông Tây (đặc điểm khí hậu, thời tiết ở hai sườn Đông và
Tây của các dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Trường Sơn).
+
Phân hóa theo độ cao địa hình.
Trình
bày sự thay đổi khí hậu theo các đai cao; độ cao kết hợp với hướng sườn dẫn đến
việc hình thành các trung tâm mưa nhiều, mưa ít ở nước ta.
-
Phân hóa theo thời gian.
+
Sự phân mùa theo chế độ gió (dẫn chứng...).
+
Sự phân mùa theo chế độ nhiệt (dẫn chứng...).
+
Sự phân mùa theo chế độ mưa (dẫn chứng...).
Câu 2: Dựa vào At lat Địa lí Việt Nam và
kiến thức đã học hãy nhận xét và giải thích sự phân hoá theo không gian và thời
gian của chế độ nhiệt ở nước ta.
Hướng dẫn trả lời
1.
Nhận xét về sự phân hoá của chế độ nhiệt
a. Nước ta có nền nhiệt độ cao
-
Tổng nhiệt độ năm từ 7500 - 10.000OC
-
Đại bộ phận lãnh thổ miền Bắc có nhiệt độ trung bình năm > 20OC,
đại bộ phận lãnh thổ miền Nam có nhiệt độ trung bình năm > 24OC
b. Nhiệt độ có sự phân hoá theo không gian
-
Nhiệt độ có sự phân hoá theo vĩ độ: Tăng dần từ Bắc vào Nam (dẫn chứng)
-
Nhiệt độ có sự phân hoá theo độ cao: Giảm dần khi khi lên các vùng núi cao (dẫn
chứng)
c. Nhiệt độ có sự phân hoá theo thời gian
-
Vào thời kỳ mùa đông: Nhiệt độ có sự phân hoá rõ rệt giữa hai miền Bắc Nam,
nhiệt độ trung bình miền Bắc thường < 18OC, miền Nam > 22OC
-
Vào thời kỳ mùa hạ, nhiệt độ khá cao trung bình > 25OC, khá đồng
đều trên toàn lãnh thổ. Nhiệt độ cao nhất ở khu vực chịu ảnh hưởng của gió Tây
khô nóng (đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải Trung Bộ).
d. Khí hậu nước ta có thể phân chia thành
hai miền theo chế độ nhiệt
-
Miền Bắc là khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh.
-
Miền Nam là khí hậu nhiệt đới và á xích đạo quanh năm nóng
2.
Giải thích về sự phân hoá không gian và thời gian của chế độ nhiệt
-
Nền nhiệt độ cao do vị trí địa lý, có kết hợp với hoàn lưu gió Tây
-
Nhiệt độ phân hoá theo vĩ độ do sự thay đổi của góc nhập xạ .
-
Nhiệt độ phân hoá theo độ cao do lên cao có sự giảm dần của cán cân bức xạ và
cán cân nhiệt, có sự tăng của độ ẩm.
-
Có sự phân hoá rõ rệt vào thời kỳ mùa đông do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.
-
Mùa hạ nhiệt độ khá đồng nhất và nhiệt độ cao nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và duyên
hải Trung Bộ đo ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và gió Tây khô nóng.
-
Có sự phân hoá của hai miền khí hậu do ảnh hưởng chủ yếu của cơ chế hoạt động
gió mùa kết hợp với địa hình.
Câu 3: (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm
2009)
a.
Dựa vào Atlat Địa lý Việt Nam và kiến thức đã học, hãy nhận xét và giải thích
chế độ mưa ở nước ta.
b.
Khối khí nhiệt đới ẩm Bắc Ấn Dương tác động đến khí hậu của nước ta như thế
nào?
Hướng dẫn trả lời
a.
Nhận xét và giải thích chế độ mưa
-
Lượng mưa lớn (dẫn chứng...).
-
Phân tích nguyên nhân gây mưa (hoạt động của gió mùa, đường hội tụ nhiệt
đới...)
-
Chế độ mưa thất thường, phân bố không đều.
+
Lượng mưa phân hóa theo không gian: những nơi mưa nhiều (dẫn chứng và giải
thích), những nơi mưa ít (dẫn chứng và giải thích).
+
Lượng mưa phân hóa theo thời gian:
•
Trong năm có hai mùa: mùa mưa (chiếm 85% lượng mưa) và mùa khô. Nguyên nhân do
tác động của gió mùa (phân tích)
•
Sự lệch pha về thời gian mùa mưa ở miền Trung. Nguyên nhân do ảnh hưởng của gió
Tây nóng, khô trong mùa hạ và ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.
b.
Khối khí nhiệt đới ẩm Bắc Ấn Độ Dương tác động
đến khí hậu của nước ta:
-
Khối khí nhiệt đới ẩm từ Bắc Ấn Độ Dương xâm nhập trực tiếp vào nước ta (thời
gian, đặc điểm của khối khí, hướng di chuyển).
-
Tác động:
+
Gây mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên
+
Gây hiện tượng gió Tây khô nóng cho vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ và phần
Nam của khu vực Tây Bắc.
Câu 4: (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2009)
a. Dựa vào Atlat Địa lí Việt
Nam và kiến thức đã học, hãy nhận xét và giải thích chế độ mưa ở nước ta:
b. Khối khí nhiệt đới ẩm Bắc Ấn Độ Dương tác động đến khí hậu
của nước ta như thế nào?
Hướng dẫn trả lời
a. Nhận xét và giải thích
chế độ mưa
- Lượng mưa lớn (dẫn
chứng...)
- Phân tích các nguyên
nhân gây mưa (hoạt động của gió mùa, đường hội tụ nhiệt đới...).
- Chế độ mưa thất thường,
phân bố không đều.
+ Lượng mưa phân hoá theo
không gian: những nơi mưa nhiều (dẫn chứng và giải thích), những nơi mưa ít
(dẫn chứng và giải thích).
+ Lượng mưa phân hoá theo
thời gian:
• Trong năm có hai mùa:
mùa mưa (chiếm 85% lượng mưa) và mùa khô. Nguyên nhân do tác động của gió mùa
(phân tích).
• Sự lệch pha về thời
gian mùa mưa ở miền Trung. Nguyên nhân do ảnh hưởng của gió Tây nóng, khô trong
mùa hạ và ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.
b. Khối khí nhiệt đới ấm
Bắc Ấn Độ Dương tác động đến khí hậu của nước ta:
- Khối khí nhiệt đới ẩm
từ Bắc Ấn Độ Dương xâm nhập trực tiếp
vào nước ta (thời gian, đặc điểm của khối thi, hướng di chuyển).
- Tác động:
+ Gây mưa lớn cho đồng
bằng Nam Bộ và Tây Nguyên.
+ Gây hiện tượng gió Tây
khô nóng cho vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ và phần Nam của khu vực Tây Bắc.
+ Làm cho mùa mưa ở duyên
hải Trung Bộ đến muộn hơn.
Câu 5: Dựa vào Atlat
Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học:
a. Nêu ra những trung tâm mưa nhiều và các khu vực mưa ít của
nước tat.
b. Giải thích nguyên nhân những nơi mưa nhiều và mưa ít trên.
Hướng dẫn trả lời
a. Những trung tâm mưa
lớn của Việt Nam là: Khu vực Huế - Quảng Nam - Kon Tum; khu vực thượng nguồn sông
Chảy; khu vực Hoàng Liên Sơn; biên giới Việt Trung ở Tây Bắc; khu vực Móng Cái;
khu vực Đông Trường Sơn; khu vực Nam Tây Nguyên và bờ biển Tây Nam Bộ.
- Các khu vực mưa ít:
Ninh Thuận - Bình Thuận; Sơn La; thung lũng sông Ba; khu vực Lạng Sơn - Bắc Giang;
Mường Xén (Nghệ An).
b. Giải thích nguyên
nhân:
- Các khu vực mưa lớn do:
+ Có địa hình chắn gió
thuận lợi (dẫn chứng...)
+ Có địa hình núi cao
(dẫn chứng...)
+ Nằm gần biển
+ Nằm ở khu vực có nhiều
nhiễu động: áp thấp, bão, dải hội tụ nhiệt đới,..
- Nơi có lượng nhỏ.
+ Nằm ở vùng khuất
gió(dẫn chứng..)
+ Không có địa hình chắn
thuận lợi (có địa hình núi nằm song song với hướng gió thịnh hành (dẫn
chứng...).
+ Nằm ở nơi xa biển.
Câu 6. Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy
nêu lên những nguyên nhân nào đã làm suy giảm tính nhiệt đới của sinh vật nước
ta.
Hướng dẫn trả lời
- Vị trí địa lí: nằm về
khu vực cận nhiệt đới nên các loài cây
xứ lạnh tràn xuống.
- Địa hình: độ cao (sự
phân bậc hình kéo theo sự xuất hiện sinh vật cận nhiệt và ôn đới); hướng núi
(hướng Bắc của các dãy núi ở Bắc Bộ,...)
- Khí hậu: Khí hậu nhiệt
đới ẩm gió mùa có mùa đông lạnh ở miền Bắc, nhiệt độ hạ thấp khi lên cao ở vùng
đồi núi làm cho tính nhiệt đới của sinh vật cũng bị suy giảm.
- Con người: sự tàn phá
rừng hay săn bắt quá mức dần làm mất đi tính ưu thế ổn định của các hệ sinh
thái nhiệt đới, việc lai tạo giống, hoặc bỏ đi các giống cây trồng và vật nuôi
bản địa,..
Câu 7: Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, so
sánh đặc điểm địa hình của miền Bắc và Đông Bắc Bộ với miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ.
Hướng dẫn trả lời
a. Khái quát vị trí của
hai miền:
- Miền Bắc và Đông Bắc Bộ
từ tả ngạn sông Hồng, giáp với Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ.
- Miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ giáp với các miền tự nhiên ở
phía Bắc và Nam; giáp với Lào, Trung Quốc và Biển Đông.
b. Giống nhau:
- Địa hình đa dạng: Địa
hình núi, đồi, đồng bằng và thềm lục địa
- Địa hình đều được trẻ
lại do vận động Tân Sinh.
- Có dải đồng bằng ven
biển do sông và biển tạo thành.
- Có hướng nghiêng địa hình
Tây Bắc - Đông Nam.
- Địa hình có sự phân bậc
rõ rệt, bị cắt xẻ bởi mạng lưới sông ngòi dày đặc.
c. Khác nhau:
- Khu vực đồi núi:
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ có độ cao thấp hơn miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ (dẫn chứng...).
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ chỉ có một bộ phận nhỏ núi cao
trên 2.000 m (dẫn chứng...).
+ Miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ có nhiều đỉnh núi cao trên 2.000 m (dẫn chứng...).
+ Độ dốc và mức độ chia
cắt địa hình của miền Tây và Bắc Trung Bộ lớn hơn miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
(dẫn chứng qua lát cắt địa hình của hai miền).
+ Giải thích: miền Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ chịu tác động của hoạt động nâng lên; miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ nằm ở rìa của khối nền Hoa Nam vững chắc nên hoạt động nâng lên yếu hơn.
- Hướng núi:
+ Miền Bắc và Đông Bắc Bắc
Bộ chủ yếu là các cánh cung mở rộng về phía Bắc, bề lồi về phía Đông và Đông
Nam chụm lại ở Tam Đảo (dẫn chứng...).
+ Miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ chủ yếu là hướng Tây Bắc - Đông Nam (dẫn chứng...) và hướng đâm ngang
ra biển (dẫn chứng...).
+ Nguyên nhân: do sự khác
nhau của hướng nâng của khối nền cổ vòm sông Chảy có hướng vòng cung, hướng
khối nền Hoàng Liên Sơn, Sông mã, Pu Hoạt có hướng Tây Bắc - Đông Nam.
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ có vùng đồi dạng bát úp chuyển tiếp rõ rệt, còn miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ có vùng chuyển tiếp đột ngột do cường độ nâng lên của miền Bắc và Đông
Bắc Bắc Bộ yếu hơn miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ.
- Khu vực đồng bằng:
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ có đồng bằng phù sa châu thổ rộng lớn và là đồng bằng Bắc Bộ do vùng sụt
lún bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình.
+ Miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ có dải đồng bằng nhỏ hẹp (dẫn chứng...) do có các dãy núi ăn sát ra
biển, phù sa ít, thềm lục địa hẹp,...
+ Đồng bằng của miền Bắc
và Đông Bắc Bắc Bộ có tốc độ lấn ra biển lớn hơn đồng bằng ven biển Bắc Trung
Bộ.
b. Phân tích đặc điểm tự
nhiên theo hướng cắt.
• Phân tích các đặc điểm:
vị trí, địa hình, đất, khí hậu, sông ngòi, thực động vật, biển (dựa vào bản đồ
Các miền tự nhiên 14), kết hợp với các trang bản đồ Địa chất khoáng sản (trang
8), Khí hậu (trang 9), Các hệ thống sông (trang 10), Các nhóm và các loại đất
chính (trang 11), Thực vật và động vật (trang 12).
Câu 8: (Đề thi học sinh giỏi Quốc giăm 2008).
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy:
a. So sánh đặc điểm sông ngòi của miền Bắc và Đông Bắc Bộ với
miền Tây và Bắc Trung Bộ.
b. Giải thích tại sao thủy chế sông Cửu Long khá điều hòa.
Hướng dẫn trả lời
a. So sánh đặc điểm sông ngòi miền Bắc và Đông Bắc Bộ với
miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.
- Những điểm tương tự
nhau về.
+ Mạng lưới sông ngòi
(dày đặc)
+ Tổng lượng nước, hàm
lượng phù sa (lớn)
+ Hướng của sông ngòi
(Tây Bắc - Đông Nam)
+ Thủy chế (theo mùa mưa
và mùa khô của khí hậu)
- Những điểm khác nhau
chủ yếu về:
+ Đặc điểm lưu vực (diện tích,
hình dạng, độ dốc)
+ Hướng phổ biến của sông
(Tây Bắc - Đông Nam và vòng cung)
+ Mùa lũ (các sông ở
Trung Bộ có mùa lũ đến muộn hơn (dẫn chứng...)
b. Giải thích tại sao
thủy chế sông Cửu Long khá điều hòa.
- Do đặc điểm của lưu vực
và trắc diện sông (dòng sông dài, có dạng lông chim ,lưu vực lớn. độ dốc bình
quân nhỏ).
- Do tác động điều tiết
của hồ Tônlê Xap ở Campuchia.
Câu 9. Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy:
a. Phân tích các loại đất và phân bố của chúng ở miền tự
nhiên Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.
b. Tài nguyên đất của miền có thuận lợi gì đối với phát triển
nông - lâm nghiệp.
Hướng dẫn trả lời
a. Trong miền tự nhiên
Bắc và Đông Bắc Bộ có ba nhóm đất chính:
- Nhóm đất phù sa gồm:
+ Đất phù sa sông chiếm
diện tích khá lớn, phân bố tập trung ở đồng bằng Bắc bộ.
+ Đất xám trên phù sa cổ
chiếm diện tích nhỏ, phân bố ở Trung du các tỉnh rìa Đông Bắc Bộ như Vĩnh Phúc,
Thái Nguyên, Bắc Giang.
+ Đất chua mặn chiếm diện
tích nhỏ, phân bố dọc duyên hải các tỉnh Đồng bằng sông Hồng.
+ Đất cát chiếm diện tích
nhỏ phân bố ở phía Nam Đồng bằng Bắc bộ.
- Nhóm đất feralit.
+ Đất feralit trên đá
badan có diện tích nhỏ, phân tích ở một số vùng núi Đông Bắc như Tuyên Quang,
Bắc Kạn, Cao Bằng.
+ Đất feralit trên đá vôi
chiếm diện tích nhỏ phân bố ở Lạng Sơn, Bắc Kạn...
+ Đất feralit trên các
loại đá khác chiếm một diện tích lớn, phân bố rộng khắp trên địa hình đồi núi.
- Các loại đất khác chiếm
diện tích nhỏ, phân bố ở vùng núi cao ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.
b. Thuận lợi của đất đai để phát triển nông - lâm nghiệp của
miền:
- Miền tự nhiên Bắc và
Đông Bắc Bắc Bộ có nhiều loại đất trồng khác nhau nên có cơ cấu nông nghiệp đa
dạng.
- Đất phù sa thuận lợi
cho việc trồng lúa, cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, nuôi trồng thủy
sản,...
- Đất feralit thuận lợi
trồng cây công nghiệp lâu năm, trồng cỏ đã phát triển chăn nuôi, trồng rừng,...
Câu 10: (Đề thi học
sinh giỏi quốc gia năm 2011)
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy:
a. Giải thích tại sao đất ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ đa dạng.
b. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nước của sông
ngòi duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Hướng dẫn trả lời
a. Giải thích vì sao đất
ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ đa dạng
- Có nhiều loại đất: đất
feralit trên đá vôi, đất feralit trên
các loại đá khác, đất phù sa sông, đất phèn, đất mặn, đất cát biển, các đất
khác và núi đá.
- Sự hình thành đất trong
miền chịu tác động của nhiều nhân tố: đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình, con
người,...
- Trong lãnh thổ miền,
tác động của các nhân tố hình thành đất khác nhau:
+ Đá mẹ có nhiều loại
khác nhau (đá vôi, đá phiến,...) hình thành các loại đất khác nhau.
+ Khí hậu: Nhiệt đới, cận
nhiệt, tác động của nhiệt và ẩm khác nhau dẫn đến sự phong hóa, hòa tan, rửa
trôi, tích tụ vật chất, hoạt động của sinh vật khác nhau,...
+ Sinh vật: có các thảm
thực vật khác nhau (dẫn chứng...) tác động đến quá trình hình thành đất khác
nhau.
+ Địa hình: đa dạng (núi,
đồi, đồng bằng, núi cao trên 600m - 700m, ven biển, vùng trũng thấp, vùng ngoài
đê, tròn đê,...) từ đó hình thành các loại đất khác nhau.
+ Con người: hoạt động
của con người (canh tác, đắp đê, cải tạo đầm lầy,..) làm thay đổi tính chất
đất.
b. Phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến chế độ nước của sông ngòi duyên hải Nam Trung Bộ.
- Đặc điểm chế độ nước:
+ Có hai mùa nước: mùa
cạn từ tháng 1 đến tháng 8; mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12.
+ Lũ lên rất nhanh và đột
ngột
- Các nhân tố ảnh hưởng:
+ Khí hậu có hai mùa: mùa
khô và mùa mưa; mùa mưa lệch về thu đông từ tháng 9 đến tháng 12.
+ Sông ngắn và dốc (trừ
Sông Ba) mưa lớn; bão; lớp phủ rừng bị phá hủy nhiều.
Câu 11. (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2011)
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy:
a. Phân tích sự thay đổi chế độ nhiệt theo vĩ độ.
b. Giải thích tại sao có sự khác nhau về loài thực vật ở miền
Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Hướng dẫn trả lời
a. Phân tích sự thay đổi
chế độ nhiệt theo vĩ độ (tham khảo câu 2).
b. Giải thích sự khác
nhau về loài thực vật ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với Nam Trung Bộ.
- Sự khác nhau:
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ: trong rừng loài thực vật nhiệt đới chiếm ưu thế, ngoài ra còn có các
loài cận nhiệt (dẻ,...) và loài ôn đới (samu, pơmu...)
+ Miền Nam Trung Bộ và
Nam Bộ: các loài nhiệt đới, xích đạo chiếm ưu thế (cây họ đậu, vang, dầu,...)
- Giải thích:
+ Miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ: khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đông lanh; có sự di cư của các loài từ Hoa
Nam xuống .
+ Miền Nam Trung Bộ và
Nam Bộ: có khí hậu cận xích đạo gió mùa. Các loài có nguồn gốc Mã Lai -
Inđônêxia, Ấn Độ - Mianma đến.
Câu 12: (Đề thi học sinh giỏi bảng A năm
2005)
Dựa vào Atlat Địa lý Việt Nam và kiến thức
đã học, hãy xác định những điểm giống và khác nhau của các nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội giữa Trung du và miền núi Bắc Bộ với Đông Nam Bộ.
Hướng dẫn trả lời
a.
Nếu khái quát về vị trí địa lý của mỗi vùng...
b.
Sự giống nhau:
-
Cả hai vùng đều giáp biển và các nước láng giềng, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giao lưu trong các nước và quốc tế.
-
Tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú:
+
Địa hình, đất đai thích hợp với việc phát triển cây công nghiệp...
+
Nguồn khoáng sản tạo cơ sở cho phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế
biến.
+
Tài nguyên du lịch phong phú tạo điều kiện phát triển du lịch.
-
Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho các ngành kinh tế đã được
hình thành.
+
Cơ sở hạ tầng (mạng lưới giao thông,thông tin liên lạc,...)
+
Các sở công nghiệp, các vùng chuyên canh.
c.
Sự khác nhau:
-
Về vị trí địa lý của hai vùng:...
-
Vùng Đông Nam Bộ:
+
Thế mạnh (so với trung du và miền núi Bắc Bộ)
•
Tài nguyên dầu khí ở thềm lục địa (dẫn chứng...).
•
Địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai,... thuận lợi cho việc hình thành vùng
chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước.
•
Dân cư đông, nguồn lao động dồi dào, có trình độ cao,..
+
Hạn chế chủ yếu: thiếu nước trong mùa khô, ô nhiễm môi trường... bình đẳng giữa
các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội. Thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước tới đồng bào dân tộc.
-
Góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy phân bố lại dân cư , lao động trên lãnh
thổ nước ta, tạo ra tập quán sản xuất mới cho đồng bào dân tộc ít người, cải
thiện đời sống nhân dân.
-
Vùng Đông Bắc và Tây Bắc vừa là cái nôi cách mạng, vừa là căn cứ địa cách mạng;
khai thác tốt tiềm năng, phát triển kinh tế chính là thực hiện được chính sách
đền ơn đáp nghĩa, phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống, giữ vững an ninh
quốc phòng.
Câu 13. (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2009)
a. Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy
nhận xét và giải thích sự khác nhau về địa hình giữa vùng núi Trường Sơn Bắc và
vùng núi Trường Sơn Nam.
b. Tại sao nói trong các thành phần tự nhiên, địa hình đóng
vai trò chủ yếu nhất đối với sự phân hóa thiên nhiên nước ta.
Hướng dẫn trả lời
a. Địa hình vùng núi
Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam
- Giới thiệu khái quát:
+ Vùng núi Trường Sơn
Bắc: từ phía Nam sông Cả đến dãy Bạch Mã.
+ Vùng núi Trường Sơn
Nam: từ dãy Bạch Mã đến khối cực Nam Trung Bộ.
- Nhận xét sự khác nhau:
+ Về hướng: Trường Sơn
Bắc có hướng Tây Bắc - Đông Nam trong khi đó Trường Sơn Nam có hướng vòng cung
hướng về phía Đông.
+ Về cấu trúc: Trường Sơn
Bắc gồm các dãy núi song song và so le. Trường Sơn Nam gồm các khối núi và cao
nguyên (dẫn chứng...).
+ Về độ cao: Trường Sơn
Bắc thấp hơn Trường Sơn Nam (dẫn chứng...), Trường Sơn Nam có những đỉnh núi
cao trên 2.000 m (dẫn chứng...) đặc biệt
khối Kon Tum có khối núi cực Nam Trung Bộ được nâng lên, đồ sộ.
+ Về hình thái: Trường
Sơn Bắc hẹp ngang, được nâng cao ở hai đầu (dẫn chứng...), thấp ở giữa (dẫn
chứng...). Trong khi đó, Trường Sơn Nam có sự bất đối xứng rõ rệt giữa hai sườn
Đông - Tây. Sườn Đông dốc, sườn Tây là bề mặt các cao nguyên badan Pleiku, Đăk
Lăk, Mơ Nông, Di Linh tương đối bằng phẳng, có độ cao 500 - 800 - 1.000 m và
các bán bình nguyên xen đồi.
- Giải thích:
+ Vùng núi Trường Sơn Bắc
hướng núi chịu chi phối của địa máng Đông Dương, được nâng yếu trong vận động,
nên chủ yếu là núi thấp.
+ Vùng núi Trường Sơn
Nam chịu ảnh hưởng của khối nền cổ Đông
Dương, bao gồm cả địa khối Kon Tum, trong vận động Tân Kiến tạo được nâng lên
khá mạnh nên khối núi Kon Tum và khối núi cực Nam Trung Bộ thuộc núi cao trung
bình. Phía Tây và Tây Nam hoạt động phun trào badan tạo nên các cao nguyên xếp
tầng có độ cap thấp hơn.
b. Vai trò địa hình
- Đối với phân hóa các
thành phần tự nhiên: địa hình là bề mặt làm phân hóa các thành phần tự nhiên
khác, biểu hiện trước hết ở sự phân phối lại tương quan nhiệt ẩm, từ đó tác
động đến mạng lưới dòng chảy sông ngòi, ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất
và lớp phủ thực vật.
- Đối với thiên nhiên: sự
phân hóa đa dạng của thiên nhiên nước ta thể hiện trước hết ở địa hình.
+ Phân hóa theo hướng Bắc
- Nam: dãy Bạch Mã trong sự kết hợp với gió mùa Đông Bắc được xem là một trong
những nguyên nhân gây ra sự phân hóa.
+ Phân hóa theo hướng
Đông - Tây: các kiểu địa hình (vùng biển, thềm lục địa, vùng đồng bằng ven
biển, vùng đồi núi) được xem là cơ sở cho sự phân hóa.
+ Phân hóa theo độ cao:
độ cao địa hình là nguyên nhân chủ yếu gây ra.
Câu 14: Miền Địa lý tự nhiên miền Nam
Trung Bộ và Nam Bộ đã thể hiện sự phân hóa theo độ cao như thế nào?
Hướng dẫn trả lời
-
Sự phân hóa theo đai cao là quy luật phân hóa mang tính chất phi địa đới rất
đặc sắc ở Việt Nam.
- Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ là miền địa lý tự
nhiên rộng lớn nhất ở nước ta.
-
Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có cấu trúc địa chất - địa hình khá phức tạp: khối
núi, cao nguyên, đồng bằng châu thổ, dải ven biển khúc khủyu và có những cánh
đồng nhỏ hẹp.
-
Đai nhiệt đới gió mùa lên đến độ cao 900 - 1000m (trong khi ở miền Bắc chỉ đến
độ cao 600 - 700m).
-
Đai cận nhiệt đới gió mùa lên đến độ cao 900m - 1000m lên đến trên 2500m
-
Hoàn toàn không có đai ôn đới gió mùa trên núi vì đỉnh cao nhất, Ngọc Linh chỉ
cao 2598m.
Câu 15: (Đề thi học sinh
giỏi quốc gia năm 2010)
a. Dựa vào Atlat Địa lý Việt Nam và kiến
thức đã học, hãy so sánh chế độ mưa của
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên và giải thích.
b. Tại sao tháng mưa cực đại ở Hà Nội sớm
hơn ở Huế.
Hướng dẫn trả lời
a.
So sánh mưa của hai vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên:
-
Giống nhau: lượng mưa trung bình năm lớn (từu 1.600 mm đến 2.000 mm)
+
Sự phân hóa theo thời gian (dẫn chứng...).
+
Sự phân hóa theo không gian (dẫn chứng...).
-
Khác nhau:
+
Thời gian mùa mưa và tháng mưa cực đại (dẫn chứng...).
+
Tây Nguyên có những nơi mưa vào loại mưa lớn nhất cả nước, duyên hải Nam Trung
Bộ có nhưng nơi khô hạn nhất cả nước (dẫn chứng...).
-
Giải thích:
+
Mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
+
Phân tích tác động đến mùa mưa ở mỗi lãnh thổ của gió mùa Tây Nam (nguồn gốc
đến từ Bắc Ấn Độ Dương), gió mùa Đông Bắc, bão và dải hội tụ nhiệt đới.
b.
Tháng mưa cực đại ở Hà Nội sớm hơn ở Huế.
-
Tháng mưa cực địa:
+
Hà Nội vào mùa hạ
+
Huế vào mùa đông
-
Nguyên nhân gây mưa lớn cho Hà Nội và ở
Huế: gió mùa hạ và dải hội tụ nhiệt đới. Riêng ở Huế có thêm nguyên nhân hoạt
động của bão và gió mùa Đông Bắc.
-
Chỉ rõ thời gian hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới ở hai địa điểm; thời gian
hoạt động của bão, gió mùa Đông Bắc ở Huế.
Câu 16: (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2007)
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy:
a. Nêu ý nghĩa của lát cắt địa hình từ TP. Hồ Chí Minh đến
TP. Đà Lạt
b. Trình bày đặc điểm địa hình, thủy văn, đất và thực vật dọc
theo lát cắt trên.
Hướng dẫn trả lời
a. Ý nghĩa của lát cắt
địa hình từ TP. Hồ Chí Minh đến TP. Đà Lạt
- Phản ánh rõ một hướng
phân hóa địa hình quan trọng của miền tự nhiên Nam Trung Bộ và Nam Bộ (hướng
Tây Nam - Đông Bắc).
- Thể hiện rõ sự chuyển
tiếp từ địa hình đồng bằng qua các vùng đất cao Đông Nam Bộ tới vùng cao nguyên.
- Là hướng địa hình chính
của khu Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.
- Hướng cắt đó cũng chính
là hướng dốc theo quốc lộ 20, con đường nối TP. Hồ Chí Minh một trung tâm kinh
tế - xã hội lớn nhất cả nước, với TP. Đà Lạt, thành phố du lịch nổ tiếng.
b. Mô tả theo lát cắt: sử
dụng phân phối hợp tác trang bản đồ về thủy văn, đất, thực vật và động vật,...
- Địa hình:
+ Độ cao tăng dần từ TP.
Hồ Chí Minh lên Đà Lạt (dẫn chứng phối hợp các thang tầng màu trong bản đồ).
+ Các dạng địa hình chủ
yếu (đồng bằng, vùng đất cao, cao nguyên).
- Thủy văn:
+ Nêu tên các sông hồ mà
lát cắt chạy qua (dẫn chứng...).
+ Tóm tắt những điểm
chính của các đối tượng thủy văn đó.
- Đất:
+ Các loại đất (dẫn
chứng...).
+ Tóm tắt đặc điểm của
các loại đất đó.
- Thực vật: sử dụng các
bản đồ Các nhóm và các loại đất chính, Thực vật và động vật, Nông nghiệp chung,
bản đồ tự nhiên và kinh tế các vùng. Nên tên các loại thực vật phân bố theo lát
cắt phù hợp với thực tế (tên các kiểu thực bì tự nhiên hay nhân tạo, các loài
cây chính).
Câu 17: (Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2010)
a. Dựa vào Atlat Địa lí Việt
Nam và kiến thức đã học, hãy so sánh chế độ mưa của Duyên hải Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên và giải thích.
b. Tại sao tháng mưa cực đại ở Hà Nội sớm hơn ở Huế.
Hướng dẫn trả lời
a. So sánh mưa của hai
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên:
- Giống nhau: lượng mưa
trung bình năm lớn (từ 1.600mm đến 2.000mm).
- Sự phân hoá theo thời
gian (dẫn chứng...).
- Sự phân hoá theo không
gian (dẫn chứng...).
- Khác nhau:
+ Thời gian mùa mưa và
tháng mưa cực đại (dẫn chứng...)
+ Tây Nguyên có những nơi
mưa vào loại mưa lớn nhất cả nước, duyên hải Nam Trung Bộ có những nơi khô hạn
nhất cả nước (dẫn chứng...)
- Giải thích:
+ Mang đặc điểm chung của
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
+ Phân tích tác động đến
mùa mưa ở mỗi lãnh thổ của gió Tây Nam (nguồn gốc đến từ Bắc Ấn Độ Dương), gió
mùa Đông Bắc, bão và dải hội tụ nhiệt đới.
+ Phân tích đến tác động
tháng mưa cực đại ở mỗi lãnh thổ của gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc, bão và dải
hội tụ nhiệt đới.
b. Tháng mưa cực đại ở Hà
Nội sớm hơn ở Huế.
- Tháng mưa cực đại:
+ Hà Nội vào mùa hạ
+ Huế vào mùa đông
- Nguyên nhân gây mưa lớn
ở Hà Nội và Huế: gió mùa mùa hạ và dải hội tụ nhiệt đới. Riêng ở Huế có thêm
nguyên nhân hoạt động của bão và gió mùa Đông Bắc.
- Chỉ rõ thời gian hoạt
động của dải hội tụ nhiệt đới ở hai địa điểm; thời gian hoạt động của bão, gió
mùa Đông Bắc ở Huế.
Câu 18. Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học
hãy:
a. Nêu đặc điểm và
phân bố các loại đất của Đồng bằng sông Cửu Long.
b. Vì sao Đồng bằng sông Cửu Long lại có nhiều đất mặn, đất
phèn.
Hướng dẫn trả lời
a. Đặc điểm và phân bố.
- Có ba loại đất chính:
+ Đất phù sa ngọt với
diện tích khoảng 1,2 triệu ha (chiếm 30% diện tích của vùng), phân bố dọc theo
sông Tiền và sông Hậu.
+ Đất phèn chiếm diện
tích đất lớn nhất khoảng 1,6 triệu ha (41% diện tích của vùng), phần bố ở Đồng
Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, bán đảo
Cà Mau.
+ Đất mặn ven biển diện
tích 75 vạn ha (19%).
+ Ngoài ra còn một số
loại đất khác:
• Đất xám phân bố dọc
biên giới Campuchia.
• Đất feralit chủ yếu ở
đảo Phú Quốc.
• Đất cát ven biển tập
trung ở Sóc Trăng, Trà Vinh.
b. Giải thích sự xuất
hiện nhiều đất phèn, đất mặn
- Do có ba mặt giáp biển
- Địa hình thấp nhiều ô
trũng ngập nước, có hệ thống kênh rạch chằng chịt.
- Mùa khô kéo dài nên
thiếu nước nghiêm trọng làm tăng cường độ chua mặn trong đất.
- Thủy triều lấn sâu vào
trong đất liền làm nhiễm mặn.
Câu 19. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện tự
nhiên vùng Đồng bằng song Cửu Long đối với hoạt động và đời sống của con người.
Hướng dẫn trả lời
a. Thuận lợi:
-Khí hậu nhiệt đới và á xích đạo có lượng
nhiệt ẩm dồi dào, nhiều giờ nắng
- Đất đai mầu mỡ
- Hệ thống sông ngòi, kênh rạch phát triển
- Hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi phong
phú, đa dạng.
- Nhiều tài nguyên thiên nhiên
- Ít chịu ảnh hưởng của bão
b. Khó khăn
-
Tình trạng ngập lụt
- Tình trạng xâm nhập mặn,
- Tình trạng khô hạn
- Tình trạng sâu bệnh phát triển thường
xuyên.
Câu 20. So sánh những đặc điểm khác nhau về tự nhiên giữa
vùng Đồng bằng song Cửu long và Đồng bằng sông Hồng.
Hướng dẫn trả lời
-
Đồng bằng sông Hồng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh
Đồng bằng sông Cửu Long
có khí hậu nhiệt đới gió mùa và á xích đạo, quanh năm nóng
-
Đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng của bão nhiều hơn trong khí ở
Đồng bằng song Cửu Long rất ít khí xảy ra.
-
Đồng bằng sông Hồng có hệ thống đê điều để ngăn lũ và hệ thống đê
biển để ngăn mặn, trong khi đồng bằng sông Cửu Long không có hệ thống đê dọc
theo các triền song mà chỉ có đê bao và các đập, cống thoát lũ và ngăn mặn.
-
Đồng bằng sông Hồng có diện tích đất chua mặn và ngập mặn ít hơn ở
Đồng bằng sông Cửu Long và chỉ là các dải song song với đường bờ biển, trong
khi Đồng bằng sông Cửu Long diện tích này rất lớn và bao bọc xung quanh rất phù
sa sông.
Đồng bằng sông Hồng có
cây trồng vật nuôi nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trong khi Đồng bằng sông
Cửu Long có cây trồng và vật nuôi nhiệt đới và á xích đạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Chinh. Một số nhận xét về tài nguyên và xu thế biến
đổi khí hậu ở các vùng lãnh thổ Việt Nam. Tạp chí khí tượng thủy văn. Trung
tâm khí tượng Thủy văn Quốc gia, 2007.
2. Lê Huỳnh (chủ biên), Đặng
Duy Lợi, Cao Văn Dũng. Hướng dẫn sử dụng
Atlat địa lý Việt Nam. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2011.
3. X.V. Kalexnhic. Những quy luật địa lý chung của Trái Đất.
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1973.
4. Vũ Tự Lập. Địa lý tự nhiên Việt Nam. Nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội, 1999.
5. Đặng Duy Lợi (chủ biên)
và nnk. Địa lý tự nhiên Việt Nam 1.
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004.
6. Đặng Duy Lợi (chủ biên)
và nnk. Địa lý tự nhiên Việt Nam 2.
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.