Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

LỐC XOÁY Ở NƯỚC TA

        Lốc là một hiện tượng gió xoáy cực mạnh, xảy ra trong một phạm vi nhỏ,  hàng chục tới hàng trăm mét và tồn tại trong một thời gian ngắn. Nguyên nhân sinh ra gió lốc là những dòng khí nóng bốc lên cao một cách mạnh mẽ. Trong những ngày nóng nực mùa hè, mặt đất bị đốt nóng không đều nhau, một khoảng nào đó hấp thụ nhiệt thuận lợi sẽ nóng hơn, tạo ra một vùng khí áp giảm và tạo nên dòng thăng, không khí lạnh hơn ở chung quanh tràn đến tạo thành hiện tượng gió xoáy, tương tự như trong cơn bão. Đặc điểm của gió lốc là tốc độ gió tăng mạnh đột ngột trong một thời gian rõ rệt. Lốc cũng thường xuất hiện trong những đám mây dông, khi đối lưu phát triển mạnh, sự chênh lệch nhiệt độ theo chiều thẳng đứng lớn, làm cho áp suất thay đổi đột ngột, tạo nên những cột gió xoáy lớn, có khả năng bốc đi một lúc mấy toa tàu hoả, những ngôi nhà hoặc những tàu thuyền cỡ vài chục tấn, kèm theo lốc thường có dông và mưa đá. 
        Ở nước ta, hiện tượng gió lốc thường xảy ra trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 8. Ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, trong mùa đông hầu như không có hiện tượng này. Lốc xoáy thường xảy ra vào mùa hè, nhất là ở những vùng sát biển. Ở Nam Bộ, hiện tượng gió lốc trong mùa hè không nhiều như ở Bắc bộ và Trung Bộ. Lốc cũng như vòi rồng xảy ra rất đột ngột và hoạt động trong một khoảng thời gian ngắn, không thể dự báo được. Trong những ngày nắng nóng, khi có mây dông xuất hiện, chúng ta cần theo dõi chặt chẽ và có biện pháp để đề phòng thiệt hại do lốc gây ra.

PHÂN BIỆT XOÁY THUẬN NHIỆT ĐỚI, ÁP THẤP NHIỆT ĐỚI VÀ BÃO

Xoáy thuận nhiệt đới
Xoáy thuận xuất hiện ở các vĩ độ nhiệt đới được gọi là xoáy thuận nhiệt đới. Xoáy thuận nhiệt đới là vùng gió xoáy, đường kính có thể tới hàng trăm km, hình thành trên biển nhiệt đới gió thổi xoáy vào tâm theo hướng chiều kim đồng hồ ở bắc bán cầu, và theo ngược chiều kim đồng hồ ở nam bán cầu, áp suất khí quyển trong xoáy thuận nhiệt đới thấp hơn xung quanh, có mưa, đôi khi kèm theo dông, tố, lốc.           
 Áp thấp nhiệt đới
Áp thấp nhiệt đới là xoáy thuận nhiệt đới có sức gió mạnh nhất từ cấp 6 đến cấp 7 và có thể có gió giật (11-17 m/s).
   Bão
Bão là xoáy thuận nhiệt đới có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 và có thể có gió giật(17-24 m/s).
Bão thường có sức gió mạnh nhất từ từ cấp 8-9
Bão mạnh có sức gió mạnh nhất từ từ cấp 10-11
Bão rất mạnh có sức gió mạnh nhất trên cấp ≥12
  Cấp gió

Bảng cấp gió Bôpho (Beaufort scale)
Cấp gió
Tốc độ gió
Độ cao trung bình

Mức độ nguy hại

m/s

km/h
0
0-0..2
<1
-
Gió nhẹ, không ngây nguy hại

1
0.3-1.5
1-5
0.1
2
1.6-3.3
6-11
0.2
3
3.4-5.4
12-19
0.6
4
5.5-7.9
20-28
1.0
Cây cỏ có lá bắt đầu lay động, biển hơi động, thuyền buồm chao nghiêng
5
8.0-10.7
29-38
2.0
6
10.8-13.8
39-49
3.0
Cây cối rung chuyển, biển động, nguy hiểm đối với tầu, thuyền
7
13.9-17.1
50-61
4.0
8
17.2-20.7
62-74
5.5
Gió làm ngãy cành nhỏ, tốc mái nhà, biển động rất mạnh, nguy hiểm đối với tầu, thuyền
9
20.8-24.4
75-88
7.0
10
24.5-28.4
89-102
9.0
Làm đổ cây cối, nhà cửa, gây thiệt hại nặng. Biển động dữ dội, làm đắm tầu thuyền
11
28.5-32.6
103-117
11.5
12
32.7-36.9
118-133
14.0
Sóng biển ngợp trời, sức phá hoại cực kỳ lớn. Đánh đắm tầu biển có trọng tải lớn.

13
37.0-41.4
134-149

14
41.5-46.1
150-166

15
46.2-50.9
167-183

Nguồn: Quy chế báo bão lũ của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

CÁC DI SẢN ĐẶC SẮC DỌC THEO QUỐC LỘ 24 B (TP QUẢNG NGÃI)

Cung  đường quốc lộ 24 B (đoạn qua dốc Quán Cơm,  phường Trương Quang Trọng , thành phố Quảng Ngãi; điểm cuối tại cảng Sa Kỳ), đi qua những thắng cảnh, những thắng cảnh, di tích nổi tiếng của Quảng Ngãi và cả nước, là vùng đất ghi lại sự phát triển những dấu ấn của thời gian lịch sử, một trong những  cung đường di sản của Quảng Ngãi. Tài nguyên du lịch ở  đây khá đa dạng có giá trị về tự nhiên và nhân văn xứng đáng là cung đường của di sản và văn hóa. 

CÁC ĐẢO Ở QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA VIỆT NAM

9 đảo nổi và 12 đảo đá ngầm
ở quần đảo Trường Sa
do Hải quân nhân dân Việt Nam đang kiểm soát.
Theo các thông tin đã được xác nhận, tại khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam đang kiếm soát ít nhất 9 đảo nổi và 12 đảo đá ngầm.
A. ĐẢO NỔI: có 9 vị trí
1. Đảo Trường Sa
Là một hòn đảo được mệnh danh là “Thủ đô của huyện đảo Trường Sa” nổi lên như một pháo dài sừng sững kiên trung giữa Biển Đông, đảo Trường Sa ở vĩ độ 08038’30’’N và kinh độ 111055’55’’E, nằm ở phía Nam và là đảo lớn của quần đảo Trường Sa, cách Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 254 hải lý. Đảo có hình dáng gần như một tam giác vuông, có cạnh huyền nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam dài 630m, chiều rộng nhất khoảng 300m, diện tích toàn đảo khoảng 0,15km2; mặt đảo bằng phẳng, thổ nhưỡng trên đảo là cát san hô được phủ một lớp mùn mỏng lẫn phân chim của nhiều loài chim sinh sống như hải âu, hải yến, vịt biển. So với mực nước biển lúc thủy triều xuống thấp nhất, mặt đảo cao khoảng 3,4-5m.
Đảo nằm trên nền san hô ngập nước, nền san hô ở phía Đông rộng thoai thoải, phía Tây hẹp, dốc. Trên đảo có nước lợ nằm ở độ sâu khoảng 2m thuận tiện cho tắm, giặt, tưới cây, đây là sự ưu đãi của thiên nhiên cho con người ở đảo. Điều kiện khí hậu, thủy văn ở đảo Trường Sa mang đặc trưng khí hậu, thủy văn của quần đảo Trường Sa, có mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Những tháng mùa khô khí hậu rất khắc nghiệt, ngày nắng, nóng, oi bức kéo dài từ 4 giờ 30 phút đến 19 giờ hàng ngày, nhưng đây là thời kỳ sóng yên, biển lặng rất thuận lợi cho các đoàn khách từ đất liền ra kiểm tra, nắm tình hình, thăm hỏi, tham quan, động viên bộ đội và nhân dân trên đảo. Đồng thời cũng là mùa đánh bắt hải sản của ngư dân ở các tỉnh ven biển Trung bộ, Nam Trung bộ và Nam bộ, vì thế, tuy có nắng, nóng, chật chội và thiếu nước ngọt nhưng đây là những tháng mà mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, dân và quân trên đảo trở lên sôi động hơn.
Thủy triều ở khu vực đảo là chế độ nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống. Ở vĩ độ thấp, gần đường xích đạo, số ngày nắng trên đảo nhiều, trên dưới 300 ngày trong năm. Nằm giữa biển khơi, chịu sự chi phối của 3 khối gió mùa Đông Bắc, Đông Nam và Tây Bắc thường xuyên thay nhau thịnh hành mang hơi nước từ biển thổi vào, gây hư hại cho các trang thiết bị, vũ khí và sự sinh trưởng của cây cối. Những tháng mùa mưa thời tiết mát mẻ hơn nhưng lại hay có giông gió bất thường ảnh hưởng đến các hoạt động trên đảo.
Thực vật ở đảo chủ yếu là cây phong ba, bàng vuông, xương rồng, phi lao, muống biển và một số loài cỏ lau thân mền, cỏ lá kim nhưng sự phát triển, sinh trưởng kém do sự khắc nghiệt của khí hậu. Xung quanh đảo có nhiều loài ốc, cá, hải sâm. Chim có một số loài, nhiều hơn cả là cò và một số loài chim di cư theo mùa. Khu vực biển quanh đảo có nguồn hải sản phong phú có giá trị kinh tế cao thu hút nhiều tàu đánh bắt cá xa bờ của ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phú Yên,… Chính điều kiện trên đã làm cho mảnh đất nơi đây in đậm những dấu vết của người Việt xưa. Những phát hiện khảo cổ là căn cứ Lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền quần đảo Trường Sa là của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày nay.
Đảo Trường Sa (thị trấn Trường Sa) là trung tâm hành chính của huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa; bên cạnh các đơn vị quân đội, trên đảo có các hộ dân, các công trình dân sự, văn hóa tâm linh như: Trạm khí tượng thủy văn nằm trong hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia và thế giới, thường xuyên cung cấp tình hình thời tiết, khí hậu, khí tượng ở khu vực Biển Đông, nhà khách Thủ đô, nhà tưởng niệm Bác Hồ, tượng đài liệt sĩ, chùa… Nằm ở trung tâm quần đảo Trường Sa, đảo Trường Sa là nơi thuận tiện cho ngư dân tránh gió. Trên thực tế, nhiều năm qua ngư dân các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam và một số địa phương ven biển Nam bộ mỗi khi xa bờ, ra khơi sản xuất, bất ngờ có bão, giông, đau ốm, bệnh tật phần nhiều đã đến Trường Sa tạm lánh, cấp cứu, điều trị, tiếp nhận nước ngọt, lương thực, thực phẩm và rau xanh. Với vị trí thuận lợi, Trường Sa hoàn toàn có thể trở thành địa chỉ cung ứng dịch vụ nghề cá, cảng biển.
2. Đảo An Bang
Đảo An Bang nằm ở vĩ độ 07053’48’’N và kinh độ 112055’06’’E, cách đảo Trường Sa 75 hải lý về phía Đông Nam, cách đá Thuyền Chài 21 hải lý về phía Tây Nam. Đảo nằm dài theo hướng Bắc - Nam, chiều dài khoảng 220m, chiều rộng phân bố không đều, chỗ rộng nhất khoảng 100m, chỗ hẹp nhất khoảng 15-20m.
Đảo An Bang nằm trên thềm san hô ngập nước. Khi thủy triều xuống thấp nhất, độ cao của đảo khoảng 3m, mép bờ đảo xa thêm khoảng 50m. Đảo do các tảng đá san hô liên kết với nhau tạo nên. Bờ đảo được bao bọc bởi các tảng đá san hô lớn. Bờ Tây là một dải cát hẹp. Bờ Nam bãi cát thường thay đổi theo mùa, từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm được bồi thêm cát thành một bãi cát dài, đến tháng 8 bãi cát này biến mất và dịch sang bờ phía Đông của đảo. Do cấu trúc san hô của đảo dựng đứng nên 4 mùa sóng vỗ, do vậy việc ra vào đảo gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Nhiều chuyến tàu từ đất liền đến thăm cán bộ, chiến sĩ đảo An Bang vào đúng mùa sóng dữ đã không thể vào được đảo. Là đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa, đảo An Bang mang đặc điểm, tính chất khí hậu, thủy văn của quần đảo Trường Sa. Mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Số ngày nắng, nóng, giông tố lớn. Độ mặn trong hơi nước và không khí cao. Đảo không có nước ngọt. Thổ nhưỡng là cát san hô, bề mặt có phủ một lớp mùn mỏng, nghèo chất dinh dưỡng, rất khó cho cây cối phát triển. Mùa hè nắng, nóng, oi bức ảnh hưởng đến chất lượng học tập, huấn luyện, sinh hoạt của bộ đội.
Nằm ở phía Nam của quần đảo Trường Sa, đảo An Bang có vị trí rất quan trọng như cầu nối giữa các đảo thuộc quần đảo Trường Sa với khu vực dầu khí nằm trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, cùng với các đảo trong quần đảo Trường Sa, đảo An Bang tạo thành lá chắn vòng ngoài, ngăn chặn các hoạt động chống phá, tiến công của kẻ thù trên hướng biển; khống chế các máy bay quân sự, các tàu thuyền nước ngoài xâm phạm chủ quyền an ninh quốc gia; kết hợp với ngư dân các địa phương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, trận địa chiến tranh nhân dân trên khu vực Nam Trường Sa. Về kinh tế, nằm gần đường hàng hải quốc tế tấp nập vào hàng thứ hai trên thế giới, nếu được đầu tư, đảo An Bang là địa điểm làm dịch vụ hàng hải mang lại lợi nhuận cao. Hiện nay, đèn biển trên đảo đã xây dựng xong từ năm 1996 và đưa vào khai thác góp phần vào nguồn thu ngoại tệ của Nhà nước. Trên các hố của thềm san hô có nhiều loài tôm, cá quý hiếm như cá ngừ, cá mú, tôm hùm, rùa biển rất thuận tiện cho đánh bắt, chế biến, xuất khẩu.
3. Đảo Trường Sa Đông
Đảo Trường Sa Đông nằm ở vĩ độ 08056’06’’N và kinh độ 112020’54’’E cách Cam Ranh, Khánh Hòa khoảng 260 hải lý, cách đảo Đá Tây khoảng 6,0 hải lý về phía Đông Bắc, cách Đá Đông khoảng 13 hải lý về phía Tây Bắc. Chiều dài của đảo khoảng 200m theo hướng Đông Tây; chiều rộng ở nửa phía Đông khoảng 60m, ở nửa phía Tây khoảng 5-15m; diện tích toàn đảo gồm cả bãi cát phía Tây đảo khoảng 0,03km2. Đảo nằm trên bãi san hô ngập nước dài khoảng 1 hải lý. Phía Tây có một bãi cát nhỏ. Khi thủy triều thấp nhất toàn bộ đảo và bãi cát đều khô nước. Thềm san hô xung quanh đảo độ dốc lớn, chỗ nhô ra, chỗ thụt vào. Bề mặt san hô không bằng phẳng, chỗ cao, chỗ thấp, khi nước thủy triều lên cao nhập bãi rất khó xác định độ nông, sâu, gây nguy hiểm cho tàu, xuồng ra vào. Lớp bùn san hô trên đảo mỏng, rất khó cho việc trồng cây xanh. Tương tự như các đảo khác trong quần đảo Trường Sa, thời tiết trên đảo Trường Sa Đông rất khắc nghiệt, nắng, mưa, giông gió thất thường, diện tích đảo lại hẹp nên việc ăn, ở, sinh hoạt của bộ đội khó khăn.
Cùng với các đảo trong quần đảo Trường Sa, đảo Trường Sa Đông có vị trí rất quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, quốc phòng - an ninh. Nằm ở phía Đông Đông Bắc của đảo Trường Sa, từ Trường Sa Đông đến các đảo trong quần đảo Trường Sa không xa, thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi, học tập, xây dựng đảo không ngừng tiến bộ về mọi mặt, bảo vệ đảo trước âm mưu xâm chiếm của kẻ thù và tạo thành lá chắn vững chắc bảo vệ sườn phía Đông của đất nước.

Trong thềm san hô có nhiều loài hải sản quý như tôm hùm, cá ngừ, hải sâm, rùa biển và một số loài ốc có giá trị dinh dưỡng cao. Là một trong các đảo ở trung tâm của quần đảo Trường Sa, hàng năm số lượng tàu thuyền đi qua khu vực đảo Trường Sa Đông rất lớn, trong đó có nhiều tàu trọng tải từ 30.000 tấn trở lên, việc thực hiện các dịch vụ hàng hải sẽ mang lại lợi nhuận kinh tế cao. Do vị trí thuận lợi, hàng năm ngư dân các địa phương ven biển Trung bộ, Nam Trung bộ ra sản xuất, khai thác, đánh bắt hải sản tương đối đông, tạo thành thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, tài nguyên môi trường và trật tự an ninh chính trị trong khu vực.
4. Đảo Sinh Tồn Đông
Đảo Sinh Tồn Đông nằm ở khu vực phía Bắc quần đảo Trường Sa, cách đảo Sinh Tồn khoảng 15 hải lý về phía Tây; nằm ở vĩ độ 09054’18’N và kinh độ 114033’42’E. Đảo chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và nằm trên một nền san hô ngập nước. Rìa ngoài của nền san hô ngập nước cách bờ đảo từ 300-600m. Đảo có chiều dài khoảng 160m, chiều rộng khoảng 60m. Xung quanh đảo bờ cát rộng từ 5-10m; phía hai đầu đảo có hai doi cát. Doi cát phía Đông Nam dài hơn doi cát phía Tây Tây Bắc và có kích thước khoảng 140x45m, cả hai doi cát này thường di chuyển theo mùa sóng gió.
Đất trên đảo là cát san hô nên hầu như không trồng được cây ăn quả, rau xanh, chỉ phù hợp với các loại cây nước lợ như mù u, phong ba, phi lao, rau muống biển, cây bàng quả vuông, cây bão táp, cỏ dại, đất qua cải tạo có thể trồng được rau xanh. Đảo không có nước ngọt.
Đảo Sinh Tồn (xã đảo Sinh Tồn) là một trong 3 xã, thị trấn của huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa; bên cạnh các đơn vị quân đội, trên đảo có các hộ dân sinh sống, các công trình dân sự, văn hóa tâm linh như: chùa, trạm khí tượng thủy văn nằm trong hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia và thế giới.
5. Đảo Phan Vinh
Đảo Phan Vinh hay còn gọi là đảo Hòn Sập, nằm ở vĩ độ 08058’06’’N và kinh độ 113041’54’’E, nằm cách bãi đá Tốc Tan khoảng 14 hải lý về phía Tây Bắc và cách bãi đá Châu Viên (Trung Quốc chiếm giữ) khoảng 47 hải lý về phía Đông. Đảo nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, dài 132m, rộng 72m, ở đầu cuối phía Đông Bắc trên một nền san hô hình vành khuyên, dài khoảng 5 hải lý, theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Ở phía Tây của vành san hô này có 1 xác tàu đắm luôn nhô cao trên mặt nước biển.
Đảo không có nước ngọt, có cây xanh, lúc thủy triều xuống thấp nhất, người có thể lội bộ từ đảo đến xác tàu đắm. Ở giữa vành đai san hô là một hồ nước sâu. Rìa ngoài của vành san hô ở hướng Bắc và Đông Bắc đến bờ đảo dài khoảng 200m. Hiện nay ta đã xây dựng trên nền san hô đó 1 nhà lâu bền còn gọi là đảo Phan Vinh B. Tại điểm này có một lạch được dọn sạch đá san hô rất tiện cho việc chèo xuồng ra vào đảo; khi thủy triều xuống còn 0,4-0,5m, người có thể lội qua thềm san hô để vào đảo mà nước cũng chỉ sâu đến đầu gối chân. Tại thềm san hô tận cùng phía Tây của vành san hô hình vành khuyên, cách mép sóng khoảng 200m có 1 bãi san hô, khi thủy triều xuống còn 1,7m thì bãi này bắt đầu nhô lên khỏi mặt nước và khi thủy triều còn khoảng 1,5m thì bãi đá nổi cao thành hình một bãi san hô dài khoảng 50m, rộng từ 5-10m.
6. Đảo Song Tử Tây
Đảo Song Tử Tây nằm ở vĩ độ 11025’54’’N và kinh độ 14019’48’’E, cách đảo Song Tử Đông (do Philippin đang chiếm giữ) 1,5 hải lý. Về phía Nam cách 2,5 hải lý có đảo Đá Nam. Đảo Song Tử Tây có hình bầu dục diện tích khoảng 0,13km2, lòng đảo trũng xung quanh cao so với mực nước biển từ 4-6m đứng từ xa nhìn đảo như một khu rừng thu nhỏ mọc lên giữa đại dương. Màu xanh của cỏ cây hòa quyện với màu xanh của biển tạo nên màu xanh thanh bình, ổn định. Đảo có nhiều nước lợ thuận lợi cho việc tắm giặt và tưới cây, môi trường sinh thái của đảo khá thuận lợi. Hình như biển cả đã bao dung, ưu ái tặng cho con người nơi đây vị ngọt ngào, chân chất của đất liền, để bù lại những con sóng mạnh dội vào không ngớt, cho nên điều kiện trên đảo nuôi được bò, lợn, gà, trồng được nhiều rau xanh các loại tươi tốt bốn mùa. Đặc sản của đảo có cây sâm đất, bộ đội ta vẫn dùng làm nước uống khá ngon.
Đảo Song Tử Tây (xã đảo Song Tử) là một trong 3 xã, thị trấn của huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa; bên cạnh các đơn vị quân đội, trên đảo có các hộ dân sinh sống, các công trình dân sự, văn hóa tâm linh như: chùa, trạm khí tượng thủy văn của Nam Trung bộ, Âu tàu với sức chứa hàng trăm tàu cá công suất lớn, đây là địa chỉ an toàn cho ngư dân đánh bắt cá xa bờ, đảo còn có một trạm dịch vụ sửa chữa, cung cấp dầu diezen, nước ngọt cho tàu cá của ngư dân với giá bán bằng giá trong đất liền.
Đảo Song Tử Tây
7. Đảo Nam Yết
Đảo Nam Yết nằm ở phía Bắc quần đảo Trường Sa, nằm ở vĩ độ 10010’54’’N và kinh độ 114021’36’’E, cách đảo Sơn Ca khoảng 13 hải lý về phía Tây Nam, cách đảo Ba Bình (Đài Loan đang chiếm giữ) khoảng 11 hải lý về phía Nam, cách đá Ga Ven (Trung Quốc đang chiếm giữ) khoảng 7 hải lý về phía Đông, là một trong những đảo có vị trí chiến lược quan trọng trên quần đảo Trường Sa. Đảo Nam Yết có dáng hình bầu dục hơi hẹp bề ngang, nằm theo hướng Đông - Tây, dài khoảng 600m, rộng khoảng 125m, diện tích khoảng 0,6km2. Khi thủy triều thấp nhất đảo cao khoảng từ 3-4m. Đất trên đảo là cát san hô nên hầu như không trồng được các loại cây ăn quả, rau, chỉ phù hợp với các loại cây nước lợ như mù u, bàng quả vuông, phong ba, dừa và các loại cây leo, cỏ dại. Đất qua cải tạo có thể trồng được rau muống, bầu, bí. Đảo không có nước ngọt. Bãi san hô ngập nước bao quanh đảo, lan ra cách bờ từ 300-1.000m. Khi thủy triều thấp nhất, bãi san hô nhô lên khỏi mặt nước từ 0,2-0,4m. Về thời tiết, mùa mưa liên tục từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau, thời gian kéo dài từ 6 đến 8 tháng, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.848-3.235mm. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 5, thời gian kéo dài 4 tháng (có năm kéo dài 5 tháng). Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đảo Nam Yết từ 250C-290C, cao nhất 350C, thấp nhất từ 140C-210C. Gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10. Gió Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Từ tháng 7 đến tháng tháng 12 thường hay có bão đổ bộ vào đảo. Khi biển lặng, sóng cao từ 0,2-0,5m. Biển động, sóng cao từ 4-5m. Từ tháng 8 đến tháng 12 là thời kỳ cao điểm mưa to, gió lớn, gây khó khăn cho tàu ta neo đậu làm nhiệm vụ tại đảo. Độ ẩm trung bình hàng năm trên đảo Nam Yết là 79%; độ ẩm cao nhất là 96%; thấp nhất: 61%. Độ ẩm cao mang theo nhiều hơi sương muối, làm cho trang bị vũ khí, khí tài nhanh xuống cấp và lương thực, thực phẩm nhanh hư hỏng.
8. Đảo Sinh Tồn
Đảo Sinh Tồn nằm ở khu vực phía Bắc quần đảo Trường Sa, nằm ở vĩ độ 90053’12’N và kinh độ 114019’42’E cách đảo Sinh Tồn Đông khoảng 15 hải lý về phía Tây. Đảo chạy dài theo hướng Đông - Tây có chiều dài 0,39km, rộng 0,11km và nằm trên một nền san hô ngập nước. Rìa ngoài của nền san hô ngập nước cách bờ đảo từ 300-600m. Xung quanh đảo có bờ cát rộng từ 5-10m; phía hai đầu đảo theo hướng Đông - Tây có hai doi cát. Doi cát phía Đông dài hơn doi cát phía Tây và có kích thước khoảng 140x45m, cả hai doi cát này thường di chuyển theo mùa sóng gió.
Đất trên đảo là cát san hô nên hầu như không trồng được cây ăn quả, rau xanh, chỉ phù hợp với các loại cây nước lợ như mù u, phong ba, phi lao, rau muống biển, cây bàng quả vuông, cây bão táp, cỏ dại, đất qua cải tạo có thể trồng được rau xanh. Đảo không có nước ngọt.
9. Đảo Sơn Ca
Đảo Sơn Ca nằm ở vĩ độ 10022’36’’N và kinh độ 114028’42’’E; cách đảo Ba Bình 6,2 hải lý về phía Đông. Đảo hình bầu dục, hẹp ngang, nằm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Đảo dài khoảng 450m, rộng chừng 102m, khi thủy triều xuống thấp nhất đảo cao từ 3,5-3,8m. Trên đảo có nhiều cây cối xanh tốt, nhiều cây sống lâu năm lá xum xuê, rợp bóng mát rất thích nghi với điều kiện sinh sống của loài chim sơn ca. Do nhu cầu bản năng, chim sơn ca thường đến đây làm tổ, nuôi con và sinh sống nên người ta đặt tên cho đảo là Sơn Ca.
Là đảo nổi, mặt đảo bằng phẳng, thổ nhưỡng trên đảo là cát san hô, được phủ một lớp mùn mỏng lẫn phân chim, không có đất màu nên việc trồng rau xanh khó khăn. Nằm trên nền san hô ngập nước, đảo không có nước ngọt. Địa hình đảo nhô cao ở giữa, thoải dần về thềm san hô bao quanh đảo. Khí hậu, thủy văn ở đảo Sơn Ca mang đặc trưng khí hậu thủy văn của quần đảo Trường Sa, mùa hè mát, mùa đông ấm. Tuy nhiên do ở vĩ độ thấp nên thời tiết buổi trưa hơi oi bức. Mùa khô ở đảo bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Những tháng mùa khô, thời tiết rất khắc nghiệt, ngày nắng, nóng kéo dài từ sáng sớm đến xẩm tối.
Thủy triều ở đảo là chế độ nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống. Số ngày nắng trên đảo thường dao động trên dưới 300 ngày trong năm. Đảo chịu sự chi phối của 3 khối gió mùa Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam, mạnh và hoạt động dài ngày là gió mùa Đông Bắc về mùa đông và gió mùa Tây Nam về mùa hè, mang hơi nước từ biển gây hư hại cho vũ khí, trang thiết bị và sinh trưởng của cây cối. Những tháng mùa mưa thời tiết mát mẻ hơn, nhưng hay có giông gió bão ảnh hưởng đến các hoạt động trên đảo. Thực vật ở đảo khá phong phú, đa dạng về chủng loại, song nhiều hơn cả là cây bàng quả vuông, sồi, phi lao, muống biển và một số loài cỏ thân mềm có nguồn gốc tự nhiên và do cán bộ, chiến sĩ mang từ đất liền ra đảo, lâu ngày phù hợp với điều kiện thời tiết, thiên nhiên của đảo nên phát triển tốt, xanh mát quanh năm. Có thể nói, cùng với Song Tử Tây, Sơn Ca là một trong hai đảo có thảm thực vật phong phú xanh tốt. Xung quanh đảo, biển có nhiều loài ốc, cá, hải sâm. Chim có một số loài, nhiều hơn cả là chim sơn ca và một số loài chim di cư theo mùa.
Cùng với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, đảo Sơn Ca là lá chắn vòng ngoài bảo vệ sườn phía Đông của các tỉnh Nam Trung bộ. Nằm trong cụm Nam Yết, đảo Sơn Ca phối hợp với các đảo trong cụm và trong quần đảo tạo thành thế trận liên hoàn, bảo vệ cho mình và các đảo khác chống lại sự xâm chiếm, đóng xen kẽ của lực lượng nước ngoài. Xung quanh đảo Sơn Ca, phía sát ngoài rìa của thềm san hô có nhiều loài cá quý như chim, thu, ngừ, mú và một số loài hải sản có giá trị dinh dưỡng cao. Mùa sóng yên biển lặng, tàu thuyền tập thể, cá nhân các địa phương ven biển Việt Nam và các nước trong khu vực đến đánh bắt, khai thác, chế biến hải sản tương đối đông đúc. Một số loài cá xuất khẩu mang lại lợi nhuận kinh tế cao như cá ngừ đại dương, cá mú đã cho thấy giá trị kinh tế của khu vực đảo.
B. Đảo đá ngầm: Có 12 vị trí
1. Đảo Đá Nam
Đảo Đá Nam nằm ở phía Bắc quần đảo Trường Sa, vĩ độ 11023’18’’N và kinh độ 114017’54’’E, cách đảo Song Tử Tây khoảng 3,5 hải lý về phía Tây Nam, là một trong những đảo có vị trí quan trọng trên quần đảo. Đá Nam nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, dài khoảng 2,3km, rộng khoảng 1,5km. Khi thủy triều thấp có nhiều đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước. Độ cao trung bình khoảng 0,3m. Phía Đông Nam của bãi cạn có một hồ nhỏ dài khoảng 600m rộng 150m, khi thủy triều thấp nhất độ sâu của hồ từ 3-15m.
Về thời tiết ở đây cơ bản chỉ có hai mùa; mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 250C-290C, thấp nhất 140C, cao nhất 350C. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%-80%, cao nhất là 97%, thấp nhất là 60%. Độ ẩm mang theo nhiều hơi sương muối làm cho trang bị vũ khí, khí tài nhanh chóng xuống cấp và lương thực thực phẩm nhanh chóng bị hư hỏng. Mỗi năm ở đây có tới hơn 130 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10. Tháng 4 là tháng ít có gió mạnh nhất, đây là thời điểm chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa Tây Nam. Từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm thường có bão đi qua khu vực đảo, biển động, sóng cao từ 4m-5m, có những tháng cao điểm mưa to, gió lớn gây khó khăn cho tàu ra neo đậu làm nhiệm vụ tại đảo.
2. Đảo Đá Lớn
Đảo Đá Lớn thuộc bãi đá ngầm của nền san hô ngập nước, nằm ở vĩ độ 10003’42’’N và kinh độ 113051’06’’E. Cách đảo Nam Yết khoảng 28 hải lý về phía Tây - Tây Nam. Khí hậu thủy văn ở Đảo Đá Lớn mang đặc trưng khí hậu thủy văn của đảo Trường Sa, mùa hè mát, mùa đông ấm. Tuy nhiên do vĩ độ thấp nên buổi trưa hơi oi bức. Mùa khô ở đảo bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Những tháng mùa khô thời tiết rất khắc nghiệt, ngày nắng nóng kéo dài từ sáng sớm đến tối xẩm. Tuy nhiên đây lại là thời kỳ sóng yên, biển lặng rất thuận tiện cho tàu thuyền đi lại, làm ăn trong khu vực.
Chế độ thủy triều của đảo là nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống. Số ngày nắng trên đảo thường dao động trên dưới 300 ngày trong năm. Đảo chịu sự chi phối của 3 khối gió mùa Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam. Mùa gió mạnh và hoạt động dài ngày là gió mùa Đông Bắc về mùa Đông và gió mùa Tây Nam về mùa hè, mang hơi nước mặn từ biển gây hư hại cho vũ khí, trang bị và ảnh hưởng đến sức khỏe của cán bộ chiến sĩ trên đảo. Mùa mưa thời tiết mát mẻ hơn, nhưng hay có giông tố, bão, áp thấp. Cùng với các đảo trên quần đảo Trường Sa, Đá Lớn là lá chắn vòng ngoài bảo vệ sườn phía Đông của các tỉnh Nam Trung bộ. Nằm trong cụm đảo Nam Yết, Đá Lớn có thể phối hợp với các đảo trong cụm và trong quần đảo tạo thành thế trận liên hoàn, bảo vệ cho mình và cho các đảo khác chống lại sự xâm chiếm và lấn chiếm của các lực lượng nước ngoài.
Để giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, từ năm 1988 đến năm 1994, được sự chỉ đạo và đầu tư của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Công binh Hải quân đã xây dựng 3 nhà lâu bền, mở một luồng vào lòng hồ. Tùy thuộc vào sóng gió mà tàu ra đảo có thể vào neo đậu ở gần các nhà lâu bền để làm công tác chuyển tải. Xung quanh Đá Lớn, sát ngoài rìa của thềm san hô có nhiều loài cá quý hiếm như: cá chim, cá thu, cá ngừ và một số loài hải sản có giá trị dinh dưỡng cao. Mùa sóng yên biển lặng, tàu thuyền của các địa phương ven biển Việt Nam và các nước trong khu vực đến đánh bắt, khai thác, chế biến hải sản tương đối đông đúc. Từ vị trí địa lý và giá trị kinh tế của đảo Đá Lớn nói riêng cũng như khu vực quần đảo Trường Sa nói chung, càng khẳng định việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và thềm lục địa có một ý nghĩa chiến lược rất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3. Đảo Đá Thuyền Chài
Đảo Đá Thuyền Chài nằm ở vĩ độ 08011’00’’N và kinh độ 113018’36’’E cách đảo Trường Sa khoảng 87 hải lý về Đông Nam và cách đảo An Bang khoảng 20 hải lý về phía Đông Bắc. Đảo chạy theo hướng Đông - Tây Nam, dài khoảng 17 hải lý, rộng khoảng 3 hải lý. Xung quanh đảo có thềm san hô chiều rộng khoảng 200-350m, hai đầu thu nhỏ, giữa phình to, từ xa trông đảo có hình dáng một cái thuyền đánh cá của ngư dân, nên từ lâu người ta đặt tên cho đảo là đảo Thuyền Chài.
Phần phía Đông Bắc đảo có độ cao lớn hơn phần phía Đông Nam. Dọc theo suốt hai phần ba chiều dài của đảo, tính từ Tây Nam lên Đông Bắc, lác đác có những khối đá mồ côi cao trên mặt nước từ 0,2-0,4m (khi thủy triều xuống còn 0,5m). Dọc theo một phần ba đảo còn lại, đá mồ côi trồi lên mặt nước, dày hơn và cao hơn. Giữa đảo Thuyền Chài có một hồ nước sâu, khi thủy triều xuống thấp nhất vẫn bị ngập nước. Hồ có chiều dài khoảng 11km, chiều rộng trung bình 2km. Trong hồ có 3 bãi cát nhỏ nhô lên khi thủy triều xuống còn khoảng 0,5m và khi nước lớn, cả 3 bãi này đều bị ngập sâu 1m.
Ở bờ phía Đông của hồ, phía Nam đảo Thuyền Chài, Công binh Hải quân Việt Nam đã đào một luồng (năm 1987) cho tàu đi vào trong hồ. Luồng dài khoảng 300m, rộng 20m; khi thủy triều ở đảo Trường Sa cao 2m, độ sâu của luồng ở phía cửa và trong hồ 1,8m. Thềm san hô - tính từ phía Đông Bắc của hồ lên phía Bắc chạy dài theo hướng Bắc Nam, dài khoảng 13km, rộng 3km. Trên nền san hô này có những mô đá. Tháng 3 năm 1987, Công binh Hải quân đã xây dựng hai nhà lâu bền trên đảo Thuyền Chài (một nhà ở đầu Bắc, một nhà ở đầu Nam của đảo và 4 nhà cao chân (một nhà ở đầu Bắc, một nhà ở đầu Nam và hai nhà ở khoảng giữa bờ Tây của đảo).
4. Đảo Đá Cô Lin
Đảo Đá Cô Lin nằm ở vĩ độ 09046’24’’N và kinh độ 114015’12’’E, nằm cách đảo Sinh Tồn khoảng 9 hải lý về phía Tây Nam, cách bãi đá Gạc Ma (Trung Quốc chiếm giữ) khoảng 1,9 hải lý về phía Tây Bắc và cách bãi đá Len Đao khoảng 6,8 hải lý về phía Tây - Tây Nam. Đá Cô Lin có dạng một hình tam giác nhưng cạnh hơi cong, mỗi cạnh dài khoảng 1 hải lý. Khi thủy triều lên, đảo bị ngập chìm trong nước. Khi thủy triều xuống thấp, cả đảo chỉ lộ ra một vài hòn đá mồ côi.
Điều kiện khí hậu, thủy văn ở đá Cô Lin mang đặc trưng khí hậu, thủy văn của quần đảo Trường Sa, có mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Nhưng tháng mùa khô khí hậu rất khắc nghiệt, ngày nắng, nóng, oi bức kéo dài từ 4 giờ 30 phút đến 19 giờ hàng ngày. Tuy nhiên đây là thời kỳ sóng yên, biển lặng rất thuận lợi cho các đoàn khách từ đất liền ra kiểm tra nắm tình hình, tham quan, động viên bộ đội trên đảo. Đồng thời cũng là mùa đánh bắt hải sản của ngư dân các tỉnh ven biển Trung bộ, Nam Trung bộ và Nam bộ. Ở vĩ độ thấp, gần đường xích đạo, số ngày nắng trên đảo chịu sự chi phối của 3 khối gió mùa Đông Bắc, Đông Nam và Tây Bắc thường xuyên thay nhau thịnh hành mang hơi nước từ biển thổi vào, gây hư hại cho các trang thiết bị, vũ khí. Những tháng mùa mưa thời tiết mát mẻ hơn nhưng lại hay có giông gió bất thường, ảnh hưởng đến các hoạt động trên đảo.
Ở đá Cô Lin và khu vực quần đảo Trường Sa có nhiều loài chim sinh sống, đặc biệt là cò và một số loài chim di cư theo mùa. Xung quanh đảo, phía sát ngoài rìa của thềm san hô có nhiều loài cá quý như chim, thu, ngừ và một số loài hải sâm có giá trị dinh dưỡng cao. Mùa biển lặng, tàu thuyền tập thể, cá nhân của các cơ sở đánh bắt xa bờ, tàu của các nước trong khu vực đến đánh bắt hải sản tương đối đông đúc.

Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc, lực lượng Hải quân đã xây dựng ở đây một nhà lâu bền và một nhà cao chân; hai nhà này cách nhau khoảng 100m. Với vị trí tiền tiêu, đá Cô Lin cùng phối hợp với các đảo khác của quần đảo Trường Sa tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc; là lá chắn vòng ngoài bảo vệ biển, đảo; bảo vệ hướng phía Đông của các tỉnh Nam Trung bộ, Nam bộ.
5. Đảo Đá Len Đao
Đảo Đá Len Đao cùng với 2 hòn đá Cô Lin, Gạc Ma (Trung Quốc chiếm giữ) nổi lên như 3 cạnh của 1 hình tam giác. Đảo nằm ở vĩ độ 09046’48’’N và kinh độ 114022’12’’E. Cách đảo Sinh Tồn về phía Đông Nam 6,5 hải lý, cách đá Cô Lin về phía Đông 6,4 hải lý, cách đá Gạc Ma (Trung Quốc chiếm giữ) về phía Đông Bắc là 5,5 hải lý. Bề mặt Đá Len Đao tương đối bằng phẳng, khi nước thủy triều xuống thấp bãi san hô nổi lên khoảng 0,5m, khi nước thủy triều lên cao bãi ngập khoảng 1,8m. Bãi cát san hô trên đảo lấy tâm là nhà lâu bền cứ xoay một vòng là hết một năm, vào tháng 3, tháng 4 có gió mùa Đông Bắc bãi cát dịch chuyển về phía Tây Nam của đảo, khi nước triều lên có thời điểm bãi cát tạo thành hình bản đồ Việt Nam, đã có rất nhiều nhà báo đến thăm đảo chụp được hình ảnh có một không hai này.
Sự kiện ngày 14-3-1988 còn mãi in đậm trong tâm trí của mỗi người dân Việt Nam khi “nước ngoài” xâm lược. Sỹ quan trẻ thiếu úy Trần Văn Phương được lệnh chỉ huy bộ đội chốt giữ đá Gạc Ma đã bình tĩnh, thực hiện đúng đối sách, cùng lực lượng đóng giữ đảo đã khôn khéo, dũng cảm, kiên quyết chống lại, ôm chặt lá quốc kỳ, biểu tượng chủ quyền của Tổ quốc trên đảo. Trong cuộc chiến đấu một mất, một còn không cân sức đó, “nước ngoài” đã nổ súng vào đồng chí Trần Văn Phương, anh đã anh dũng hy sinh, máu thịt của anh đã quyện chặt với mảnh đất tiền tiêu của Tổ quốc.
Trong sự kiện này, 74 cán bộ, chiến sĩ cùng 3 tàu đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng của biển cả. Và cũng tại nơi đây, nơi các anh đã anh dũng ngã xuống khi tuổi đời còn tươi đẹp nhất và từ đó cho đến ngày nay cứ vào dịp 14-3 hàng năm, những người lính đảo lại thắp hương để tưởng nhớ tới các anh. Các con tàu đưa các đoàn đại biểu đến thăm, kiểm tra đá Len Đao thường dừng lại, thả những vòng hoa xuống vùng biển và giành thời gian mặc niệm tưởng nhớ đến các đồng chí đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ quần đảo Trường Sa của Tổ quốc.
6. Đảo Đá Tiên Nữ
Đảo Đá Tiên Nữ nằm ở vĩ độ 08051’18’’N và kinh độ 114039’18’’E, cách Cam Ranh 374 hải lý, cách đá Tốc Tan 35 hải lý về phía Đông. Chiều dài nhất khoảng 6,5km, chiều rộng nhất khoảng 2,8km. Đảo là một vành đai san hô khép kín; gắn với câu chuyện huyền thoại về một người con gái xuất hiện giữa biển khơi, mang đến bình yên cho vùng này.
Khi thủy triều xuống còn khoảng 0,7m, có những gò san hô nổi lên, nhiều và cao nhất là rìa Bắc và rìa Đông của đảo. Ở rìa Đông có hai hòn đá mồ côi luôn cao hơn mặt nước biển. Khi thủy triều xuống còn 0,1m, toàn bộ vành ngoài mép san hô đều nổi cao lên, có thể đi bộ quanh đảo. Thềm san hô quanh đảo có chiều rộng từ 300-500m. Phía trong vành đai san hô là hồ. Chiều dài hồ khoảng 7,5km, chiều rộng khoảng 3,4km. Điều kiện thời tiết, thủy văn của đảo Tiên Nữ mang đặc điểm kiểu thời tiết, thủy văn của quần đảo Trường Sa, mát về mùa hè, ấm về mùa đông; có hai mùa mưa và khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Đây là thời kỳ sóng biển tương đối êm ả, ít giông bão và không có thời tiết bất thường xảy ra. Chế độ thủy triều của đảo là nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống. Lượng mưa phân bố không đều, về mùa khô cả tháng không có giọt nước mưa, về mùa mưa có ngày lượng mưa lên tới 300mm.
Đảo Đá Tiên Nữ có vị trí rất quan trọng. Nằm trong khu vực III của quần đảo Trường Sa. Từ đảo Tiên Nữ đến các đảo Tốc Tan, Núi Le, Phan Vinh và một số đảo ở phía Nam của quần đảo Trường Sa khoảng cách không xa, thuận tiện cho việc trao đổi thông tin, gặp gỡ, tiếp xúc giữa các đảo và là địa chỉ tin cậy của ngư dân các địa phương ra sản xuất trong khu vực này. Là đảo nằm ngoài cùng của sườn phía Đông quần đảo Trường Sa, như một vị trí tiền tiêu của quần đảo, dễ phát hiện mục tiêu từ xa tới và cùng với các đảo trong quần đảo tạo thành lá chắn ngoài cùng đầu tiên bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Xung quanh đảo có nhiều loài cá tôm cá quý hiếm như cá ngừ, cá mú, cá tráp, tôm hùm, rùa biển dễ đánh bắt, khai thác, chế biến phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hiện trên đảo đã có nhà lâu bền, vừa là nơi học tập, sinh hoạt, công tác, ăn, ở, nghỉ ngơi, vừa là công trình chiến đấu phòng thủ đảo. Trong lòng hồ có phao buộc tàu, luồng ra vào có tiêu chỉ dẫn, thuận tiện cho tàu thuyền.
7. Đảo Đá Núi Le
Đá Núi Le là bãi cát san hô ngầm, nằm ở vĩ độ 08042’36’’N và kinh độ 114011’06’’E, cách Cam Ranh hơn 300 hải lý, cách đảo Tốc Tan 6,0 hải lý về phía Đông. Đảo trải dài theo hướng Bắc - Nam, chiều dài khoảng 10km, rộng khoảng 5km. Đảo có thềm san hô xung quanh tương đối khép kín, bên trong là hồ, chiều dài 11 hải lý, chiều rộng 2,3 hải lý. Khi thủy triều xuống thấp nhất, rải rác có những điểm nhô lên khỏi mặt nước.
Thời tiết khí hậu, thủy văn của đảo Núi Le phản ánh đặc trưng thời tiết, khí hậu, thủy văn của quần đảo Trường Sa, mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Nắng, nóng, giông gió thất thường. Lượng mưa phân bổ không đều, mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4 không có mưa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 ngày nào cũng có mưa, có ngày lượng mưa hơn 200mm. Thủy triều của đảo là chế độ nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống.
Đảo có vị trí rất quan trọng, nằm ở vị trí trung tâm của khu vực III thuộc quần đảo Trường Sa, gần các đảo Tốc Tan, Tiên Nữ, Phan Vinh, tạo thành lá chắn vòng ngoài, phía Đông của quần đảo Trường Sa bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Là địa chỉ tin cậy của ngư dân các địa phương mỗi khi ra đánh bắt hải sản ở khu vực này. Trong khu vực đảo có nhiều loài tôm cá quý như cá ngừ, cá mú, tôm hùm, rùa biển đang được khai thác phục vụ cho nhu cầu đời sống của nhân dân và xuất khẩu mang lại lợi nhuận cao.
8. Đảo Đá Tốc Tan
Đảo Đá Tốc Tan nằm ở vĩ độ 08048’42’’N và kinh độ 113059’00’’E, cách bãi đá Đông khoảng 78 hải lý về phía Đông. Khi thủy triều xuống một số đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước. Những ngày biển động, có thể phát hiện cụm bãi đá này từ xa nhờ sóng biển đập vào bờ san hô tung bọt trắng xóa. Cụm bãi đá Tốc Tan có chiều dài khoảng 20km, rộng khoảng 7km, diện tích trung bình 75km2. Thềm san hô phía Bắc rộng hơn phía Nam và tạo thành vành đai liền, còn thềm san hô phía Nam thường bị đứt quãng bởi các luồng vào hẹp và nông.
Độ sâu trung bình trong hồ của cụm bãi đá này tương đối lớn, giới hạn trong khoảng 15-25m. Trong hồ có nhiều đá mồ côi lập lờ dưới mặt nước có 3 phao buộc tàu, đường kính 2m, các phao được cố định với đáy bằng rùa bê tông, mỗi rùa nặng khoảng 3 tấn. Công binh Hải quân Việt Nam đã xây dựng trên thềm san hô của cụm bãi đá phía Tây 3 nhà lâu bền: Một nhà ở thềm san hô phía Tây Bắc (nhà B); một nhà ở thềm san hô phía Bắc (nhà C); một nhà ở thềm san hô phía Đông Nam (nhà A).
9. Đảo Đá Đông
Đảo Đá Đông nằm ở vĩ độ 08049’42’’N và kinh độ 112035’48’’E, cách đảo Đá Tây khoảng 19 hải lý về phía Đông, cách đảo Châu Viên (Trung Quốc chiếm giữ) 10 hải lý về phía Tây. Đảo nằm theo hướng Đông Tây, chiều dài của đảo khoảng 14km, chỗ rộng nhất của đảo khoảng 3,8km. Diện tích đảo Đá Đông khoảng 36,4km2. Cấu trúc vành đai san hô phía Bắc cao hơn so với vành đai san hô phía Nam. Khi thủy triều Trường Sa xuống 0,4m thì vành đai san hô phía Bắc đã nhô lên khỏi mặt nước, vành đai san hô phía Nam thấp hơn, nên khi thủy triều xuống còn 0,2m thì vành đai san hô mới nhô lên khỏi mặt nước.
Đảo Đá Đông thuộc cụm Trường Sa trong quần đảo Trường Sa. Khí hậu thủy văn của đảo Đá Đông mang đặc trưng khí hậu thủy văn của quần đảo Trường Sa, mùa hè mát, mùa đông ấm hơn trong đất liền. Tuy nhiên do ở vĩ độ thấp nên thời tiết buổi trưa hơi oi bức. Mùa khô ở đảo bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Những tháng mùa khô thời tiết rất khắc nghiệt, ngày nắng kéo dài từ sáng sớm đến tối xẩm. Tuy nhiên đây là thời kỳ sóng yên, biển lặng rất thuận tiện cho tàu thuyền đi lại, làm ăn trong khu vực, nhất là các đoàn khách từ đất liền ra không mấy khi gặp sóng to, gió lớn. Thủy triều trên đảo là chế độ nhật triều, một lần nước lên, một lần nước xuống. Số ngày nắng trên đảo thường dao động trên dưới 300 ngày trong năm. Đảo chịu sự chi phối của 3 khối gió mùa Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam, mạnh và hoạt động dài ngày là gió mùa Đông Bắc về mùa đông và gió mùa Tây Nam về mùa hè, mang hơi nước từ biển vào nên gây hư hại cho vũ khí trang bị và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của bộ đội trên đảo. Những tháng mùa mưa thời tiết mát mẻ hơn nhưng hay có giông bão, ảnh hưởng tới hoạt động ở trên đảo.
Cùng với các đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa, đảo Đá Đông là lá chắn vòng ngoài bảo vệ sườn phía Đông của các tỉnh Nam Trung bộ. Nằm trong cụm Trường Sa, đảo Đá Đông có thể phối hợp với các đảo trong cụm và trong quần đảo tạo thành thế trận liên hoàn, bảo vệ cho mình và các đảo khác chống lại sự xâm chiếm của các lực lượng nước ngoài. Xung quanh đảo Đá Đông, phía ngoài của thềm san hô có nhiều loài cá quý như chim, thu, ngừ, mú và một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Mùa sóng yên, biển lặng, các loại tàu thuyền của ngư dân các địa phương ven biển Việt Nam và các nước trong khu vực đến đánh bắt, khai thác, chế biến hải sản tương đối đông đúc. Do đặc điểm là đảo đá ngầm, cho nên để bảo đảm cho lực lượng hải quân ăn ở, sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ, công binh Hải quân đã xây dựng trên bãi san hô Đá Đông 3 nhà lâu bền. Một nhà ở thềm san hô phía Tây; một nhà ở thềm san hô phía Bắc và một nhà ở thềm san hô phía Đông.
10. Đảo Đá Tây
Đảo Đá Tây nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa, vĩ độ 0805’30’’N và kinh độ 112013’06’’E, cách đảo Trường Sa khoảng 20 hải lý về phía Đông Bắc, là một trong những đảo có vị trí quan trọng trên quần đảo. Đảo Đá Tây có dạng hình quả trám, nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, ở giữa là một cái hồ, có độ sâu không đều. Chiều dài đảo có thể phân ra thành 4 đảo nhỏ riêng biệt được ngăn cách bằng các luồng. Ở bãi san hô phía Đông có một doi cát nổi lên, chỗ cao nhất khoảng 0,7m.
Về thời tiết ở đây cơ bản chỉ có hai mùa: Mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26-300C, thấp nhất 150C, cao nhất có khi lên đến 360C. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76-80%, cao nhất là 97%, thấp nhất là 60%. Độ ẩm mang theo nhiều hơi sương muối làm cho trang bị vũ khí, khí tài nhanh chóng xuống cấp và lương thực thực phẩm nhanh chóng bị hư hỏng.
Mỗi năm ở đây có tới hơn 130 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10. Tháng 4 là tháng ít có gió mạnh nhất, đây là thời điểm chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa Tây Nam. Từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm thường có bão đi qua khu vực đảo, có những tháng cao điểm mưa to, gió lớn gây khó khăn cho tàu ra neo đậu làm nhiệm vụ tại đảo.
11. Đảo Đá Lát
Đảo Đá Lát nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa, tọa độ 08040’42’’N và 111040’12’’E, cách đảo Trường Sa khoảng 14 hải lý về phía Tây. Đảo Đá Lát nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, dài khoảng 5,9km, rộng khoảng 1,6km, diện tích khoảng 9,9km2. Đá Lát là đảo san hô khép kín, phía trong là hồ nước, khi thủy triều lớn toàn đảo bị ngập nước, thủy triều xuống thấp các bãi san hô và đá mồ côi nhô lên khỏi mặt nước.Về thời tiết ở đây cơ bản chỉ có hai mùa: Mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26-300C, thấp nhất 150C, cao nhất có khi lên đến 360C. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76-80%, cao nhất là 97%, thấp nhất là 60%. Độ ẩm mang theo nhiều hơi sương muối làm cho trang bị vũ khí, khí tài nhanh chóng xuống cấp và lương thực thực phẩm nhanh chóng bị hư hỏng. Mỗi năm ở đây có tới hơn 130 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10. Tháng 4 là tháng ít có gió mạnh nhất, đây là thời điểm chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa Tây Nam. Từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm thường có bão đi qua khu vực đảo, có những tháng cao điểm mưa to, gió lớn gây khó khăn cho tàu ra neo đậu làm nhiệm vụ tại đảo.
12. Đảo Đá Thị
Đảo Đá Thị nằm ở phía Bắc quần đảo Trường Sa, vĩ độ 10024’42’’N và kinh độ 114022’12’’E, cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lý về phía Đông - Đông Bắc, là một trong những đảo có vị trí quan trọng trên quần đảo. Đảo Đá Thị có hình hơi tròn và dẹt về hai đầu, nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, là đảo đá ngầm dài 1,5-2km, rộng khoảng 1-1,3km. Đảo có độ dốc về hướng Đông Nam, độ sâu của đảo không đều, khi nước thủy triều cao khoảng 1,2m thì toàn bộ đảo nằm dưới mặt nước khoảng 0,6m. Khi mặt đảo nhô lên khỏi mặt nước 0,3m thì ở giữa đảo vẫn còn chỗ có nước. Về thời tiết ở đây cơ bản có hai mùa: Mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25-290C, thấp nhất 140C, cao nhất 350C.Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76-80%, cao nhất là 97%, thấp nhất là 60%. Độ ẩm mang theo nhiều hơi sương muối làm cho trang bị vũ khí, khí tài nhanh chóng xuống cấp và lương thực thực phẩm nhanh chóng bị hư hỏng. Mỗi năm ở đấy có tới hơn 130 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 10. Tháng 4 là tháng ít có gió mạnh nhất, đây là thời điểm chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa Tây Nam. Từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm thường có bão đi qua khu vực đảo, biển động, sóng cao từ 4-5m, có những tháng cao điểm mưa to, gió lớn gây khó khăn cho tàu ra neo đậu làm nhiệm vụ tại đảo.



TÌM HIỂU VỀ DU LỊCH ĐẢO LÝ SƠN

    Lý Sơn- huyện đảo xinh đẹp ven biển tỉnh Quảng Ngãi, nơi lưu giữ những thắng cảnh hoang sơ, những di tích, lễ hội và các giá trị văn hoá phi vật thể vô giá.
huyện đảo Lý Sơn
      1.     Sơ lược về huyện đảo Lý Sơn
         Huyện đảo Lý Sơn nằm ở phía đông tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền khoảng 30km, với diện tích gần 10km2, dân số khoảng 20.000 người.
           Huyện đảo Lý Sơn gồm 3 hòn đảo là Đảo Lớn, Đảo Bé và hòn Mù Cu. Đảo Lớn còn gọi là Cù Lao Ré, là trung tâm của Lý Sơn. Đảo Bé còn có tên gọi khác là An Bình. Hòn Mù Cu ở phía đông, nằm sát Đảo Lớn, là đảo nhỏ nhất và không có người ở.
          Lý Sơn được hình thành cách đây khoảng 3000 năm do sản phảm phun trào nham thạch núi lửa nên lưu lại nhiều dấu tích hoang sơ, kì vĩ nhưng cũng rất thơ mộng. Những cư dân đầu tiên đặt chân đến huyện đảo này vào khoảng thế kỷ XVI-XVII, gồm 15 dòng tộc thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh của tỉnh Quảng Ngãi.
          Lịch sử hình thành và định cư trên đảo đã mang đến cho cụm đảo này nhiều thắng
Huyện đảo Lý Sơn nhìn từ trên cao
 cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sử và các công trình văn hoá có giá du lịch và nhiều lĩnh vực khác. 
   2.   Tài nguyên du lịch của huyện đảo Lý Sơn
      Lý Sơn có tài nguyên du dịch khá đa dạng, phong phú với đầy đủ cả về tài nguyên du lịch tự nhiên lẫn nhân văn. 
  2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.1.1. Cổng Tò Vò
         Từ  cầu cảng chính đi vào cổng chào của Lý Sơn, rẽ trái đi men theo con đường nhỏ gần chùa Đục sẽ thấy một mỏm đá nhỏ nằm sát dưới biển. Cổng Tò Vò là một "vòm cổng" bằng đá cao khoảng 2,5m, có hình thù ngoạn mục, và hoàn toàn không có sự tác động nào của bàn tay con người. Theo các nhà địa chất, Cổng Tò Vò được hình thành từ nham thạch núi lửa, là kết quả của hàng triệu năm núi lửa hoạt động tại đây. Quanh  Cổng Tò Vò là những bãi đá nham thạch đen bóng, hình thù kỳ lạ nhấp nhô trên làn nước trong veo của đảo Lý Sơn.
Cổng Tò Vò
Từ Cổng Tò Vò nhìn về phía Nam là khu làng chài sung túc của các ngư dân trên đảo. Trong khi đó ở phía Bắc lại là cảnh tượng hùng vĩ của núi Giếng Tiên, một ngọn núi lửa đã tắt. Khung cảnh tuyệt vời khiến Cổng Tò Vò còn được gọi bằng một cái tên khác là Cổng Thiên Đường. Đây là địa điểm chụp ảnh được ưa chuộng hàng đầu của giới trẻ khi đến với đảo Lý Sơn.
2.1.2.  Quần thể núi Thới Lới- Chùa Hang
·            * Núi Thới Lới     
             Núi Thới Lới ở thôn Đông xã An Hải là 1 trong 5 ngọn núi lửa đã tắt của Lý Sơn. Ngọn Thới Lới cao khoảng 170m so với mực nước biển này được coi là “nóc nhà” của Lý Sơn. Đường đến đỉnh Thới Lới gập ghềnh khó đi như chưa bao giò khiến du khách thập phương nản lòng bỏ cuộc vì vẻ đẹp kì vĩ, hoang sơ nhưng cũng thất hữu tình, Xung quanh núi là những vách đá dựng cheo leo ngày đêm nghe sóng biển rì rào, đỉnh Thới Lới là một hồ nước ngọt lớn mênh mông từ miệng núi lửa đã tắt. Đến đỉnh Thới Lới, du khách có thể thoả sức ngắm nhìn mây trời bao la, lộng gió trên đỉnh đầu hay quan sát toàn cảnh huyện đảo Lý Sơn với muôn màu thiên nhiên kì thú, thơ mộng và cuộc sống của cư dân trên đảo. Từ đỉnh núi thới Lới, ta có thể ngắm những đồng hành, tỏi với những mảng màu đỏ của đất ba dan pha lẫn màu trắng của cát biển và màu xanh của lá. Chính đặc trung của đất, cát  trên hòn đảo dầy nắng và gió cộng với đôi bàn tay cần cù của cư dân trên đảo đã làm bên đặc sản nổi tiếng trong và ngoài nước-hành, tỏi Lý Sơn.  
Núi Thới Lới nhìn từ biển vào
            Các vị tiền nhân trên đảo chia sẻ rằng, trước đây, trên đỉnh Thới Lới là cánh  rừng nguyên sinh nên có nhiều suối chảy xuổng chân núi, nổi tiếng nhất là suối Chình,
nhưng do bị tàn phá nên ngày nay rừng kia đã mất và suối Chình cũng không còn. Vì thế vẽ đẹp của núi Thới Lới phần nào bị mất đi nhưng không vì thế mà Thới Lới không làm say đắm long người mõi khi đặt chân đến đây.
         *  Chùa Hang

Chùa Hang
       Chùa Hang (tên chữ là Thiên Khổng Thạch Tự, Chùa đá trời sinh) ở xã An Hải, đảo Lý Sơn, được lập ra dưới triều vua Lê Kính Tông bởi ông Trần Công Thành, một trong những người đã ở đây tạo dựng cùng với việc khẩn hoang, mở đất lập làng An Hải, An Vĩnh xưa. Gọi là chùa Hang vì chùa nằm trong một hang đá lớn nhất trong hệ thống hang động ở Lý Sơn, được tạo ra từ dãy núi Thới Lới, màu nham thạch, vách núi dựng đứng cao gần 20m. Chùa Hang nằm ở địa thế thoáng đảng, trước mặt là biển khơi nên từ sân chùa trước cửa hang du khách có thể phóng tầm mắt ra biển mênh mông. Giữa sân có một hồ sen và tượng phật lớn. Bên trong hang dài khoảng 2,4m, cao 3,2m, tổng diện tích 480m2. Trong hang thờ phật Di Đà, Phật Tổ Như Lai…Các bệ thờ ban đầu được tạo tác từ các nhũ đá tự nhiên, về sau được được gia công thành các khám thờ.
Hang Câu- thắng cảnh dưới chân núi Thới Lới    
      Hang Câu:Chỉ mất chưa đầy 15 phút từ trung tâm huyện đi dọc theo con đường nhựa dưới chân núi Thới Lới về phía đông bắc, với hai bên đường là những vuông hành, tỏi xanh rì là đến bãi biển- nơi Hang Câu hiện hữu. Nơi đây không khí rất trong lành, gió thổi lồng lộng và sóng biển quanh năm vỗ vào ghềnh đá- được tạo thành từ nham thạch, cao hàng trăm mét, trông rất nên thơ và hùng vĩ. Có lẽ đây là nơi người Lý Sơn hay câu cá, hoặc cũng có thể là nơi đây có nhiều rau câu nên gọi là Hang Câu.       
          Đến với Hang Câu, du khách có thể đắm mình trong lòng nước biển mát lành, trong xanh, vừa thưởng ngoạn cảnh sắc hùng vĩ của những vách đá cheo leo và dưới chân mình là những đàn cá tung tăng bơi lội quanh những rạng san hô và những khối đá phẳng lì do sóng nước bào mòn. Đỉnh Thới Lới- Hang Câu có thể coi là điểm du lịch lí thú với những ai đến với Lý Sơn.  
2.1.3. Núi lửa Giếng Tiền 
        Núi Giếng Tiền cách Thới Lới không xa, nghiêng mình ra biển rát thơ mộng. Lòng Giếng Tiền cũng là miệng núi lửa nhưng không lớn bằng Thới Lới. Cùng với cát lấy từ biển quanh đảo, loại đất đỏ ở núi Giếng Tiền này được người dân Lý Sơn lấy về rải lên ruộng, thành lớp phân để bón tỏi. Chính loại đất và cát ấy đã tạo nên hương vị rất riêng cho tỏi Lý Sơn. Cũng tại miệng núi lửa Giếng Tiền, có một khoảng đất nhỏ,  dù là đất đỏ nhưng lại không một loài cây cỏ nào mọc được. Theo quan niệm của người dân nơi đây, đây chính là vùng đất thiêng, đất tinh khiết nhất nên người ta thường lấy về làm cốt cho những ngôi mộ gió của Đội Kiêm Quản Bắc Hải đã hy sinh khi đi bảo vệ Hoàng Sa từ thời vua Minh Mạng.
    Đảo Bé (An Bình)
Cảnh quan Đảo Bé

Cảnh quan Đảo Bé
      Đảo Bé còn gọi là An Bình là hòn đảo lớn thứ 2 trong 3 đảo của Lý Sơn, đúng như tên gọi, có diện tích rất bé. Đảo Bé tuy diện tích rất nhỏ, nhưng lại có một bãi tắm đẹp tuyệt vời với làn cát trắng mịn, bao bọc bởi cánh cung vách đá cao và những con sóng tung bọt trắng xóa ào ạt ngày đêm.
    


2.1.4.  Hòn Mù Cu
              Hòn Mù Cu nằm ở phía đông đảo cách trung tâm huyện 3,2 km sát với vũng neo đậu tàu thuyền An Hải. Là nơi rất đẹp bởi những hòn đá đen có nhiều kiểu độc đáo tạo nên, đây cũng là nơi nghỉ mát và ngắm mặt trời mọc lý tưởng trên đảo.
Thắng cảnh Mù Cu
2.1.5. Các tài nguyên du lịch tự nhiên khác:
·        Khí hậu: Đảo Lý Sơn chịu tác động chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa trên vùng biển nhiệt đới nóng, ẩm. Chế độ nắng thuộc loại dồi dào nhất trong hệ thống các đảo nước ta với tổng số giờ nắng trung bình khoảng 2.430,3 giờ/năm. Đây là một lợi thế  khác biệt của Lý Sơn so với một điểm đến tương tự rất nổi tiếng là đảo Jeju – Hàn Quốc, tạo điều kiện lý tưởng triển khai các dịch vụ du lịch biển khám phá, nghỉ dưỡng, tắm biển, lặn biển ngắm san hô và các dịch vụ khác. Tuy nhiên, thiên tai như bão và gió mùa đông bắc làm cho du lịch Lý chủ yến diễ ra voà mùa hạ.
·        Sinh vật biển: Lý Sơn nằm trong khu vực biển rất giàu các nguồn hải sản, thực vật và các tài nguyên thiên nhiên quý giá khác. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo - Bộ Tài nguyên –Môi trường thì vùng biển Lý Sơn có rất nhiều loài hải sản quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như san hô xanh, san hô đen, bào ngư, trai tai tượng… Các nhà khoa học cũng công bố ở đây có trên 700 loài động thực vật bao gồm 137 loài rong biển, 157 loài san hô, 07 loài cỏ biển, 40 loài da gai, trên 200 loài cá rạn và 96 loài giáp xác. Hệ sinh thái phong phú này là tiềm năng lớn giúp cho việc phát triển kinh tế khai thác, đánh bắt hải sản cũng như bảo tồn thiên nhiên phục vụ nhu cầu phát triển du lịch.
      Ngoài ra, đến với Lý Sơn không thể bỏ qua những đồng tỏi mênh mông, vơi màu xanh của lá hoà quyện cùng màu đỏ của lớp đất badan và màu trắng của cát biển.
Cảnh quan đồng tỏi Lý Sơn
         Có thể nói thiên nhiên đảo Lý sơn vừa hung vĩ, vừa thơ mộng là nơi lí tưởng để du khách tham quan, nghĩ dưỡng, đặc biệt là vào mùa hè.
2.2.  Tài nguyên du lịch nhân văn

2.2.1. Âm Linh Tự
    

Âm linh tự và mộ gió đội hùng Binh Hoàng Sa
       Âm Linh Tự được xây dựng trên một giồng đất cao, thoáng đãng nằm ở phía tây xã An Vĩnh- Lý Sơn. Mặt tiền Âm Linh Tự nhìn ra hướng nam, trước sân có đài tưởng niệm các chiến sĩ. Đây là nơi thờ cúng các vong hồn, những người vô gia cư, không họ hàng thân thích. Từ năm 2010, nơi đây còn dung thờ cúng các vị tiền hiền và các tử sĩ đội hùng binh Hoàng Sa, Bắc Hải. 
2.2.2. Chùa Đục-Quan Âm Đài
       
Chùa Đục 
        Chùa Đục nằm giữa chừng núi Giếng Tiền, Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, chùa Đục chính thức được xây dựng từ năm 1964 nhưng sau năm 1975 trỏ thành chùa hoang, đến năm 2000, chùa được trùng tu do sư cô Thích Nữ Thuỳ Liên tiếp quản tu hành. Du khách vượt qua 100 bậc thang, men theo sườn núi sẽ tới được chùa Đục. Toạ lạc trong danh thắng chùa Đục làQuan Âm Đài với chiều cao 27m, tựa lưng vào núi. Từ chùa Đục bạn có thể ngắm nhìn cảnh biển xa xa đẹp như một bức tranh.    2.2.3. Đình làng An Vĩnh
Đình làng An Vĩnh

      Đình làng An Vĩnh được xây dựng từ thế kỉ XVIII, ban đầu, đình được xây dựng bằng tranh, cột tre, gỗ. Đến đời vua Khải Định Thứ 5 tức năm 1920, đình được xây dựng lại theo kiến trúc chữ tam gồm đình thượng, đình trung và đình hạ. Năm 2009, Nhà nước đầu tư để trùng tu lại đình theo kiến trúc cũ nhưng không còn giữ được dấu tích của hải đội Hoàng Sa trước đây.  Hàng năm, nơi đây được chọn làm lễ cầu vong cho những tử sĩ Hoàng Sa năm xưa đã ra đi để bảo vệ biên cương tổ quốc. Đình làng An Vĩnh vinh dự được công nhận là di tích cấp quốc gia. Du khách thập phương đến đây ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, thưởng ngoạn những cảnh quan đẹp còn đến để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, lòng thành kính thiêng liêng với các bậc tiền nhân đã hy sinh vì chủ quyền đất nước.
Đình làng An Vĩnh
2.2.4. Đài tưởng niệm Hải Đội Hoàng Sa
Đài tưởng niệm Hải Đội Hoàng Sa
       Toạ lạc ngay trung tâm huyện Lý Sơn, Cụm tượng đài và nhà lưu niệm đứng sừng sững hiên ngang trước song biển và nắng gió là biểu tượng khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc. Ngay trong sân tiền sảnh, tượng đài đề tên “đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải” sừng sững uy phong. Công trình tượng đài vừa khánh thành năm 2010 cao hơn 4 mét. Tượng đài khắc họa 3 chân dung: Vị đứng chính giữa là cai đội với một tay chỉ thẳng về hướng biển Đông, một tay đặt lên cột mốc chủ quyền khắc chữ Hán Nôm “Vạn lý Hoàng Sa”. Hai bên cai đội là hai dân binh, một người cầm giáo, một người vác lưới trên tay. Đó chính là những đại diện của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải
  Theo dòng lịch sử nước ta, vào thế kỷ 17, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa để khai thácquần đảo Hoàng Sa, lại lập đội Bắc Hải, phụ trách các đảo xa ở phía nam quần đảo Hoàng Sa (nay là quần đảo Trường Sa). Điều này cũng ghi lại trong nhiều tài liệu lịch sử. Trích “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn soạn năm 1776, theo bản dịch của Viện Sử học, có đoạn:“Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy.
2.2.5.  Đình An Hải
Đình An Hải
               Năm Minh mạng nguyên niên (Canh Thìn – 1820), đình An Hải được xây dựng quy mô, bề thế, gồm cả tiền đường và chính điện theo kiểu kiến trúc hình chữ nhị () khá quen thuộc của các đình làng miền Trung  lúc bấy giờ. Một thời gian sau đó, dọc theo bờ biển, bên tả và bên hữu đình làng, nhiều công trình thờ tự khác dần dần được dựng lên: Chùa Bà, chùa Ông, Nghĩa tự (Âm Linh tự), miếu Thành Hoàng, đền thờ Tiên Công, miếu Quỷ, lăng thờ Cá Ông...
          Từ năm 1820 đến nay, đình làng An Hải trải qua nhiều đợt tu bổ và xây thêm công trình, vào các năm 1926 (tu bổ), 1938 (xây mới hậu tẩm), 1943 (xây mới chính điện và tiền đường), 1999 (đại tu chính điện và tiền đường), 2007 (đại tu hậu tẩm). Về cơ bản, kiến trúc hiện nay của đình An Hải định hình trong lần trùng tu năm Bảo Đại thứ 18 (Nhâm Thân – 1943), song trong những lần sửa chữa, trùng tu về sau, một số chi tiết kiến trúc đã có sự thay đổi, hoặc mất hẳn.
 2.2.6. Các tài nguyên du lịch nhân văn khác
    ·  Lễ hội
          Nhân dân huyện đảo Lý Sơn tổ chức nhiều lễ hội trong năm nhưng có lẽ quan trọng nhất là lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa. Nhân dân Lý Sơn có câu ca dao rằng “ Hoàng Sa đi dễ khó về. Khi đi thì có nhưng về thì không” để nói lên nỗi khắc nghiệt, gian nan của hải đội Hoàng Sa ngày trước. Để tưởng nhớ đội hung binh Hoàng Sa Kiêm Quản Bắc Hải ngày xưa, Lễ khao lề thường được tổ chức vào các ngày 16, 16 tháng 3 âm lịch. Lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Đây còn là lời khẳng định với bạn bè năm châu rằng: Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. 
       ·  Ẩm thực
       Lý Sơn có nhiều ẩm món ăn đặc sản mang đạm hương vị của biển nhưng rất độc đáo mà có ai đó thưởng thức một lần sẽ nhớ mãi. Có thể kể ra ở đây như: 
         - Gỏi rong biển
         Một trong những đặc sản của biển đảo Lý Sơn, nếu ai từng thưởng thức qua, hẳn  khó mà quên hương vị đậm đà của món gỏi rong biển nơi đây. Những cọng rong biển thân tròn, rẻ nhánh như những cành san hô, xanh trong trộn lẫn giữa những cọng rau húng quế,bên trên, rắc khéo những hạt đậu phộng và ít hành phi dậy mùi kích thích khứu giác.
         - Gỏi tỏi

       Đảo Lý Sơn được mệnh danh là vương quốc tỏi, cây tỏi ngoài lấy củ còn được chế biến thành món gỏi hấp dẫn. Gỏi tỏi Lý Sơn được làm từ thân tỏi đực, tỏi nhổ lên chỉ lấy phần thân, bỏ lớp vỏ ngoài cùng, rửa sạch hấp cách thủy cho chín rồi trộn với các loại gia vị, rắc thêm ít đậu phộng là có món gỏi có hương cay nồng của tỏi ngon tuyệt.
           Gỏi sứa
       Món ăn không cầu kỳ, phức tạp là công thức của món gỏi sứa ngọt mát này giống như người dân xứ đảo luôn mộc mạc vậy. Sứa vừa vớt về đem ngâm trong nước chuối chát xắt mỏng để sứa đỡ ra nước, sau trộn với rau thơm, xoài, khế… pha chế chén nước chấm bằng mắm ngon. Ngoài ra, người dân nơi đây còn phi hành với dầu ăn dậy mùi thơm, vàng rộm trộn đều nhau, rồi rưới nước mắm và nêm nếm món gỏi cho thật vừa khẩu vị, và rắc thêm đậu phộng.
      - Cua Huỳnh Đế
      Đến Lý Sơn, bạn không thể bỏ qua những món hải sản tươi ngon một trong những đặc sản của Lý Sơn chính là cua huỳnh đế. Cua huỳnh đế được tôn xưng là vua của các loài cua bởi cua huỳnh đế có bộ áo giáp dày và cứng, màu đỏ hồng như chiến bào, li ti gai nhọn xuôi theo thân, càng to, cạnh sắc lém như dao. Trong lịch sử, loài cua huỳnh đế vốn là đặc sản tiến vua bởi thịt cua mềm, càng ăn càng ngon, thơm và bổ dưỡng.
Ngoài ra còn nhiều món ăn khác như cháo nhum biển, cua Dẹt; cá Tà Ma; Hàu Son sào; …
         Có thể nói Lý Sơn là mảnh đất giàu tiềm năng phát triển du lịch bậc nhất Quảng Ngãi nói riêng, ven biển miền Trung nói chung. Nơi đây đa dạng, phong phú về tài nguyên du lịch với cảnh quan đẹp hùng vĩ nên thơ, nhiều di tích văn hoá lịch sử mang tính nhân văn sâu sắc. Hãy đến với Lý Sơn  bạn sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ mà ít nơi nào có được.








           

HỌC SINH

CÁCH TẠO BLOG